Những mùa xuân bất khuất

ANTD.VN - Có một điều kỳ lạ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là rất nhiều lần kẻ thù bại trận ở Thăng Long buộc phải đầu hàng rút quân về nước đều diễn ra vào mùa xuân. Không biết là ngẫu nhiên của lịch sử hay cha ông ta chọn thời điểm mùa xuân, mùa của dương khí tràn trề, mùa dễ cộng hưởng lòng yêu nước và sức mạnh để “đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông”.

Những mùa xuân bất khuất ảnh 1Hoàng thành Thăng Long là quần thể công trình kiến trúc được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử 

Kinh đô bao giờ cũng là đầu não chính trị, quyền lực của mọi quốc gia phong kiến trên thế giới, vì thế khi quốc gia ấy bị xâm lược thì kinh đô bao giờ cũng là cái đích cuối cùng của kẻ đi xâm lược. Chiếm được kinh đô là chiếm được quyền lực và áp đặt sự đô hộ lên quốc gia đó. Kinh đô Thăng Long cũng không ngoại lệ. Trong lần xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất của đế chế Mông Nguyên, chúng đã chiếm thành Thăng Long.

Trước sự hung bạo của kẻ thù, triều Trần ra lệnh cho quân và dân tạm rút khỏi kinh thành. Trong lịch sử thì đây là lần đầu tiên nhân dân Thăng Long sơ tán để đánh giặc. Trước khi rời kinh thành, triều đình dã di chuyển tất cả kho tàng vàng bạc, lương thực và tài sản của nhân dân ở 61 phường để thực hiện kế “thanh dã”. Quân giặc dễ dàng chiếm thành nhưng chỉ còn là tòa thành trống rỗng và chúng chỉ tìm thấy những tên sứ giả hỗn xược sang dụ dỗ, đe dọa buộc nhà Trần phải đầu hàng, bị trói chặt bằng thừng tre.

Trung thành với truyền thống bất khuất của Đại Việt, Vua Trần sai trói giam những tên sứ giả đó và hạ lệnh cho toàn dân đánh giặc. Chỉ ở trong thành đúng 11 ngày, quân Nguyên Mông đã buộc phải rút khỏi thành Thăng Long trong mùa xuân 1258. Đó là trận quyết chiến chiến lược đầu tiên trên đất Thăng Long kể từ khi Đại Việt ra đời.

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, một bài học được rút ra là khi nào triều chính rối loạn, nội bộ suy yếu và lòng dân bất an thì thường bị kẻ thù lợi dụng để xâm chiếm. Cuối năm 1406, vận mệnh của Đại Việt và Thăng Long - Đông Đô bị giặc phương Bắc đe dọa khi Minh Thành Tổ đưa 80 vạn quân xâm lược. Quân Minh đã chọc thủng phòng tuyến của quân đội nhà Hồ ở Ba Vì tiến về thành.

Ngày 21-1-1407, Đông Đô thất thủ. Và sau mấy tháng, lực lượng kháng chiến của nhà Hồ tan rã, những người cầm đầu bị giặc bắt khiến cuộc kháng chiến chống giặc Minh do nhà Hồ lãnh đạo thất bại. Chúng đổi tên Đông Đô thành Đông Quan. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ở ngoại vi nhưng phải chờ đến khi Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa ở Lam Sơn giải phóng một vùng rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào thì tương quan địch ta mới thay đổi.

Đêm 22-11-1426, Lê Lợi đích thân chỉ huy quân tiêu diệt lực lượng phòng vệ ngoại vi và doanh trại ngoài thành Đông Quan rồi sau đó áp sát vây hãm thành, uy hiếp và chặn đường giao thông, ngăn tiếp tế của địch từ bên ngoài vào thành, dụng kế dụ tướng giặc Vương Thông ra hàng.

Bên cạnh vận động, thuyết phục thì chính Nguyễn Trãi cũng đã 5 lần vào thành trực tiếp thương lượng với Vương Thông. Lê Lợi cũng cho con trai là Tư Tề cùng Lưu Nhân Chú vào trao đổi con tin với viên tướng này. Cuối cùng, Vương Thông tuyệt vọng đã phải xin hàng và rút quân về nước. Mùa xuân năm 1428, quân Lê Lợi đã giải phóng hoàn toàn thành Đông Quan.

Trong chiến dịch này có 2 sự kiện mang ý nghĩa lịch sử là Hội thề Đông Quan ngày 10-12-1427 tại một địa điểm phía Nam thành Thăng Long. Bại tướng Vương Thông và lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi đã cùng uống máu ăn thề, Vương Thông cam kết rút quân về nước. Sự kiện thứ hai là trên tinh thần “Lấy khoan hồng thể bụng hiếu sinh”, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã cấp hàng trăm chiếc thuyền, hàng nghìn con ngựa và lương thực để 10 vạn quân Minh trong đó có 5 vạn đóng ở Đông Quan về nước. 

Thời Lê sơ, Thăng Long yên bình nhưng rồi đến đời vua Uy Mục (1505-1509), một vị vua chỉ lo ăn chơi và sự dốt nát của Tương Dực (1509-1516) đã khiến nông dân nổi dậy khởi nghĩa và triều Mạc ra đời vào năm 1527. Khi một lực lượng được tập hợp ở Thanh Hóa dựng lên triều Lê để chống lại triều Mạc thì chính quyền vua Lê - chúa Trịnh đã kéo dài từ năm 1592 đến 1786. Thăng Long trở lại trật tự sau 2 lần quân Tây Sơn ra Thăng Long vào năm 1787 và 1788. Lê Chiêu Thống đớn hèn đã trốn khỏi Thăng Long sang cầu cứu nhà Thanh. Quân Tây Sơn lúc này đang đồn trú ở Thăng Long dưới quyền chỉ huy của tướng Ngô Văn Sở hay tin đã quyết tâm “cho chúng ngủ một đêm rồi lại đuổi chúng đi”, sau đó cho rút quân khỏi thành.

 Tối 16-12-1788, quân giặc bắt đầu vượt sông Hồng tiến vào Thăng Long. Dưới ách chiếm đóng của quân Thanh, Thăng Long trải qua những ngày tháng đau thương và căm hận. Lê Chiêu Thống và bọn tay chân hiện nguyên hình là tên vua bán nước ươn hèn tàn nhẫn. Dân Thăng Long rỉ tai nhau “Nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay chưa có ông vua nào luồn cúi đê hèn đến như thế”. Căm ghét quân giặc và bọn bán nước, dân kinh thành càng hướng về lá cờ cứu nước của Quang Trung - Nguyễn Huệ.

Sáng mùng 5 Tết Kỷ Dậu,  quân Tây Sơn cùng một lúc mở hai cuộc tiến công quyết định vào đồn Ngọc Hồi và Đống Đa tiêu diệt toàn bộ quân giặc ở 2 đồn này làm Sầm Nghi Đống khiếp sợ phải thắt cổ tự tử ngay tại sở chỉ huy. Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung cưỡi voi chiến với chiến bào sạm đen khói súng dẫn đầu đoàn quân chiến thắng vào thành Thăng Long.

“Thăng Long phi chiến địa. Thiên hạ vạn đại xương”. Thăng Long - Hà Nội không bao giờ muốn chiến tranh để người dân đời đời thái bình và hạnh phúc nhưng nếu quân giặc cố tình xâm chiếm thì sẽ phải chuốc lấy thất bại. Và lịch sử 1.000 mùa xuân qua đã chứng minh điều đó.