Nhà thơ Nguyễn Thị Mai

“Nuôi con bến thực, nuôi mình bến mơ”

ANTĐ - 1. Đã 3 lần chúng tôi đi phượt cùng nhau. Lần đầu tiên Nguyễn Thị Mai tổ chức cho chị em đi Lào. Nguyễn Thị Mai công tác ở Hội phụ nữ, thường xuyên đi dạy về giới cho chị em phụ nữ nhiều tỉnh thành, cho cả chị em phụ nữ Lào nên quen biết nhiều. Nguyễn Thị Mai đã liên hệ với Hội phụ nữ Lào, Hội Văn hóa nghệ thuật Lào, sứ quán Việt Nam tại Lào, một trường Đại học bên Lào rồi tổ chức cho nhóm nhà thơ, nhà văn nữ chúng tôi đi. Tuy là một tổ chức tự do mà được khắp nơi đón tiếp, trọng thị. Chuyến đi đó, biết bao kỷ niệm. 

Đi xa mới biết Nguyễn Thị Mai thật giỏi giang. Đi xa mới hay khả năng giao tiếp, tập hợp của một cán bộ phụ nữ như chị. Cả đoàn 7 người, quân số gọn nhẹ, tưởng đơn giản nhưng hóa ra lại khá phức tạp, bởi toàn nhà thơ nữ - mỗi người một tính, thế mà Nguyễn Thị Mai dung hòa được hết. Đúng là trăm điều hãy cứ trông vào mình ta. Nguyễn Thị Mai đi đâu cũng vậy, tính toán cẩn thận, chi tiết để đám nhà thơ nữ chúng tôi khỏi tốn kém. Đi với chị một lần tôi càng thêm hiểu vì sao mọi người yêu quý chị. Đâu chỉ là thơ - nhiều người làm thơ hay. Đâu chỉ là nhà thơ - nhiều nhà thơ nổi tiếng. Nhà thơ Nguyễn Thị Mai đến với người yêu thơ bằng cả tấm lòng chân thành, quý trọng. Chị khoe vui với tôi - có lần đến nơi đọc thơ mà giật mình - biểu ngữ căng đầy trong ngoài hội trường chào mừng nhà thơ Nguyễn Thị Mai. Đi với chị, tôi gặp nhiều nhà giáo, nhiều cán bộ, bộ đội sống ở làng mà thơ hay, thơ thấm đượm tình yêu con người, làng xóm. 

Nhà thơ Nguyễn Thị Mai trong một chuyến thực tế tại Mộc Châu

2. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có một người con gái ngoại thành Hà Nội đã tản cư lên một làng nhỏ huyện Cẩm Khê, Phú Thọ. Ở đây, cô gái ấy đã lập gia đình và sinh hạ được ba con gái. Nguyễn Thị Mai là cô bé vừa lọt lòng mẹ đã được bà ngoại đón về Gia Lâm nuôi. Người con gái lớn ở lại với cha và Mai cùng chị giáp mình về xuôi với mẹ. Rồi mẹ đi bước nữa. Mai có thêm 6 đứa em tiếp theo. Năm 1977 chị lên dạy học ở miền núi, 2 đứa em trai nhập ngũ. Nhà đông chị em, cuộc sống đã khó khăn thì năm 1980 bố dượng mất, năm 1981 mẹ ốm ròng rã và đầu năm 1982 mất tiếp: Một nhà trắng những khăn xô/ Dải khăn em út bấy giờ chấm chân/ Bấy giờ đang cuối mùa xuân/ Hoa xoan lã chã từ sân ra vườn/ Nhà còn bơ gạo cắm hương/ và bơ nữa thổi bát cơm trứng gà/ Gia tài lúc mẹ đi xa/ đôi quang đứt dải, căn nhà dột mưa… Từ miền núi Hòa Bình, Nguyễn Thị Mai quyết thi và đi học thạc sĩ rồi về xuôi gánh vác gia đình, bởi cuộc sống của các em lúc đó trông vào người chị. Thế là cô giáo - thạc sĩ trẻ đã không nề hà việc gì để có tiền nuôi con và nuôi các em. Nào tráng bánh cuốn đêm để sáng bán và đổi gạo. Nào ép dép nhựa, đổ gạch bê tông, làm mành tre, thêu áo ki-mô-nô xuất khẩu. Nào đổ thuốc lá cho quán. Nhớ có lần mang 2 cây thuốc Sông Cầu đi bán chị bị bắt, khám cặp thấy toàn giáo án và sách vở, nhà thuế vụ thông cảm cho đi. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là cái nghề cắt tóc, uốn tóc dạo vào thời kỳ giá - lương - tiền khó khăn, nhà trường nợ giáo viên 3 tháng lương. Trên chiếc xe đạp cà tàng, đằng trước là một túi đồ nghề và một túi đựng gạo, ngô… còn đằng sau chị chở 2 đứa con còn nhỏ. Cứ thế 3 mẹ  con đi dạo khắp làng quê  huyện Thường Tín để cắt tóc đàn ông, uốn tóc phụ nữ lấy tiền sinh sống.  

3. Bây giờ Mai vẫn vậy, vẫn làm việc không biết mệt mỏi. Chị chính là Hạnh Hoa gần 20 năm với những câu chuyện gia đình trên phụ san Hạnh phúc gia đình của báo Phụ nữ Việt Nam. Chị là cán bộ Mặt trận, Hội đồng nhân dân phường nơi cư trú. Ngồi với tôi trên xe mà chị Mai nhận liên tục điện thoại về công việc phường. Hội khuyến học cần người thay. Phụ trách thiếu niên nhi đồng là ai đây? Còn nữa, chuẩn bị chào mừng Đại hội Mặt trận, đón Xuân 2014… lo từ bây giờ. Hỏi có được phụ cấp gì không? Có chứ. Trưởng ban công tác mặt trận 150 ngàn đồng/tháng. Hỏi đi họp có phong bì không? Có chứ. Họp phường được 10-15 ngàn đồng/buổi. Hỏi cho vui vậy. Hỏi để trêu bạn vậy. Từ nãy cứ điện thoại các cuộc không hiểu cước phí bao nhiêu? 

Nguyễn Thị Mai đến với thơ có lẽ bắt đầu từ ngày bà ngoại chị thường kêu cô cháu gái hay chữ đọc Kiều, đọc Lục Vân Tiên cho nghe. Nhà nghèo, ngày xưa đâu có sách gì. Vừa đọc vừa buồn ngủ. Đọc nhiều rồi thuộc, rồi thấm vần điệu. Lớn lên Mai đi học, thầy cô học trò giỏi văn và có khiếu làm thơ bích báo, thầy giáo dạy văn cấp 2 đã có ý định đào tạo bồi dưỡng cô học trò thành nhà thơ bằng cách bắt cô mỗi tuần phải sáng tác một bài thơ nộp thầy. Và bây giờ Nguyễn Thị Mai không chỉ thành nhà thơ mà còn là người có duyên với những cuộc thi thơ. Nhưng cái thành công trong sáng tác văn chương nhiều khi không chỉ đánh giá theo giải. Thơ chị đi vào lòng bạn đọc, đi đến với nhiều người yêu thơ lục bát. Đó là câu thơ dành cho mẹ đầy thương cảm mà nhiều người thuộc: Từ ngày đưa mẹ ra đồng/ Qua hàng trầu vỏ con không dám nhìn - (Qua hàng trầu vỏ). Thơ lục bát của chị có nhiều bài về tình yêu, số phận, nhưng tôi thích lối viết nhẹ nhàng mà hóm hỉnh của chị: Lọt trời rơi xuống tay em/ Mệnh hỏa thì tưới, mệnh kim thì mài) - (Bàn tay em) hay: Dù anh biển rộng trời xa/ Cũng không bước nổi qua tà áo em - (Anh và em) 

Những câu lục bát như thế, không chỉ giới nữ thích thú mà cánh đàn ông cũng xuýt xoa, ngộ ra mà giật mình. Thế đấy, giản dị như chất vốn có của ca dao  mà vẫn hiện đại trong hình ảnh, trong giọng điệu. Nguyễn Thị Mai là vậy. 

Và đây, một câu lục bát đã cho ta chân dung Nguyễn Thị Mai - người đàn bà làm thơ  thay cho lời khen, thay cho lời kết: Em thì tất tả mưu sinh/ Nuôi con bến thực nuôi mình bến mơ.