Sách trên đầu giường khá nhiều. Nhiều nhất vẫn là sách ma quỷ trêu chọc người đời kiểu Liêu Trai chí dị hay Truyền kỳ mạn lục.
Một hôm, đọc được một trang sách hay, TrươngTrương mỉm cười ấp sách lên ngực suy nghĩ, mắt mơ màng.
Chợt thấy gió thổi mạnh sập cửa ngoài. Sau đó lại thấy một thiếu nữ đẩy cửa bước vào. Vào đến trong nhà, cô gái lấy tay phủi những hạt mưa còn đọng trên áo, trên tóc, rồi khẽ khàng ngồi xuống chiếu.
Trương hỏi:
- Xin lỗi, cô từ đâu tới?
Cô gái cười:
- Anh hỏi thật lạ. Dưới gầm trời này, không từ đất bước vào, chẳng lẽ lại từ trời rơi xuống.
Câu trả lời cũng khá hóm hỉnh. Trương cười hỏi khách:
- Có lẽ ngoài gió sương lạnh lẽo, cô cũng cần một chén trà nóng chứ?
- Ồ, thế thì còn gì bằng.
Trương rót nước cho khách. Cô nhấp nhẹ từng ngụm rồi khẽ khàng:
- Trà của anh ngon thật. Hình như có cả hương hoa nhài.
Trương gật đầu khen:
- Cô thật là người sành thưởng thức...
Cô gái im lặng, thỉnh thoảng đưa mắt ra ngoài.
Trương Trương cười hỏi:
- Có ai đợi cô ngoài ấy chăng?
- Làm gì có ai...
Cô im lặng một lát rồi nói:
- Nghe nói anh thích truyện ma quỷ. Vậy anh có sợ ma đến hỏi thăm không?
- Tôi đang chờ ma đến đây!
- Anh có nhớ bài Đề từ ở đầu cuốn Liêu Trai chí dị không?
- Nhớ chứ! Cô nhớ không? Đọc tôi nghe thử.
- Anh là người thích truyện ma thì phải thuộc chứ còn chờ ai đọc nữa.
Trương cười hắng giọng, nhấp một ngụm trà rồi ngâm:
Cô vọng ngôn chi, cô thính chi
Đậu bàng qua giá vũ như ty
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ
Ái thính thu phần quỷ xướng thi
Cô gái gật đầu khen:
- Giọng ngâm hay lắm, nhưng anh liệu có dịch được không?
- Thì cũng định thử xem. Nhưng trước bản dịch của cụ Tản Đà thì đành kính nhi viễn chi!
- Vậy anh có muốn nghe bản dịch khác không?
- Của cô ư?
- Của ai thì của. Miễn là cứ nghe đã.
- Liệu có vượt được bản dịch của cụ Tản Đà không?
- À, bản dịch của cụ Tản Đà ư? Thế nào nhỉ: “Nói láo mà chơi, nói láo chơi. Giàn dưa lún phún hạt mưa rơi. Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc. Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời”.
Ngừng lại uống nước, cô tiếp:
- Cụ Tản Đà là hay dịch phóng. Đậu bàng qua giả là giàn dưa giá đậu, hai thứ hay ở gần nhau, cụ chỉ nói đến giàn dưa còn lờ giá đậu... lại thêm hai chữ lún phún... Hai chữ này thô cứ như thơ Hồ Xuân Hương ấy.
Trương cười vì lời phẩm bình rất hồn nhiên, bảo:
- Cô cho nghe bản dịch xem nào.
Cô gái đọc:
Nói láo thôi mà, nói láo thôi
Giàn dưa, giá đậu sợi mưa rơi
Dường như đã chán chuyện nhân thế
Thích được nghe ma ngâm vài lời
Trương khen:
- Xem ra còn thoát hơn cả bản dịch của cụ Tản Đà đấy.
- Cảm ơn anh quá khen...
Cô nhìn quanh ngôi nhà, rồi chậm rãi nhận xét:
- Quanh nhà chỉ toàn sách là sách, như thế thì trời lạnh sẽ ấm mà trời vào hè sẽ nóng.
- Nóng thì đã có quạt...
- Nhưng nếu có thứ khác, sẽ ấm hơn!
- Thứ gì mà quý vậy?
- Đàn bà.
Trương nghe xong cười khẩy.
Cô nhíu lông mày, hỏi:
- Sao anh lại cười?
- Cô cho rằng có đàn bà thì ấm hơn ư? Có họ là có âm dương, đúng là hay thật, nhưng cũng có lúc phiền!
- Sao lại phiền?
- Tôi có đọc ở đâu đó, thơ của một người chắc chắn cũng từng trải lắm, viết về đàn bà.
- Anh đọc thử xem nào
- Thế nào nhỉ? À, nhớ rồi
Đàn bà
Trong đời ta thiếu họ,
Tính nết sẽ khác đi
Nghĩ suy rồi cũng khóc
Đàn bà
Lúc thơm như trái ngọt
Lúc đắng như mật cá mè
Ta rạng rỡ
sụp đổ...
Ta vui
Ta khổ
Rời không xong
Đi không nổi
Đàn bà,
Tiếng thét thuở yêu,
Chiếc gậy trên đường đau khổ...
Cô nghe xong vỗ tay, rồi cười vang:
- Sao lại cười! Thơ dở quá chăng?
- Đâu có! Thơ hay, rất hay... Chắc là anh Trương yêu tới số nên cũng bị hành tới số, thế cho nên nỗi đau ngấm tận xương mới viết được bài thơ như thế!
Ấm trà nhạt thì trời đã hửng. Gà gáy báo sáng đó đây đã vang vang. Cô gái chỉ về phía mặt trời mọc nói:
- Đằng đông hình như đang mưa. Có lẽ hôm nay trời sẽ nắng to đấy!
- Sao vậy?
- Thì anh không nghe người xưa đã nói: nắng sớm trồng cà, mưa sớm ở nhà phơi thóc ư!
Trương cười vang, khen:
- Cô quả là người của văn chương...
Ngoảnh đi ngoảnh lại, thoắt đã không thấy người đối thoại với mình từ nửa đêm đến giờ đâu nữa. Trương giật mình. Kiểu này thì thiếu nữ ấy là người hay là ma. Nàng là tiên xuống thử mình chăng?
Những đêm sau, Trương có ý chờ, cô không đến. Trương bồn chồn nhớ. Cầm sách đọc không nổi. Pha trà uống một mình chán ngắt. Đi đi lại lại quanh phòng từ nửa đêm cho đến sáng. Có lúc, đứng chẳng được, đi cả ra ngoài sân, ngoài ngõ, ngóng không thấy lại vào.
Trương ốm lơ ốm lửng, một người bạn thân đến chơi, mua thuốc cho uống, rồi hỏi chuyện. Trương say sưa thuật từ đầu đến cuối. Nghe xong, anh ta mỉm cười bảo:
- Cậu thật có duyên. Thôi tỉnh lại đi. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Nếu như người đẹp lại đến, thậm chí ở lại cho căn nhà có âm có dương thì đâu còn chuyện để kể cho thiên hạ nữa.
Trương tỉnh ngộ, nhưng vẫn day dứt nhớ. Và anh buột miệng, hướng về nơi người ấy bỏ đi, ngâm:
Có được nhau rồi, đánh mất đi
Người ơi sao nỡ chẳng quay về
Nửa đêm trăng sáng, sương trời lạnh,
Đêm dài, chín tỉnh lại mười mê.