Cần xác lập vững chắc các cân đối kinh tế vĩ mô lớn của đất nước (*)

ANTĐ - Ngày khai mạc Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã trình bày Báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2012; việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2013. Sau đó, các đoàn ĐBQH đã có buổi thảo luận tại tổ về báo cáo này. Báo ANTĐ xin trân trọng giới thiệu ý kiến đóng góp của TS Phạm Huy Hùng - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa XIII thuộc đoàn ĐBQH TP.Hà Nội

I. Về báo cáo bổ sung tình hình kinh tế, xã hội & NSNN năm 2012; Tình hình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển KT, XH & NSNN  năm 2013.

Tôi cơ bản nhất trí với báo cáo của chính phủ đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, báo cáo thẩm tra của Ủy ban kinh tế Quốc hội. Trước tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, chưa ổn định và chậm phục hồi, còn tiểm ẩn nhiều rủi ro. Trong nước bên cạnh thuận lợi, vẫn còn nhiều khó khăn. Chúng tôi cho rằng, những kết quả đạt được về kinh tế - xã hội năm 2012 vẫn là cơ bản.

Năm 2012, chính phủ đã chỉ đạo tích cực, đạt kết quả tốt, có 11/15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, GDP đạt 5,03% là tích cực, Việt Nam được xếp hạng trong 20 nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiềm chế, cán cân thương mại đã cải thiện rõ rệt, xuất siêu 750 triệu USD, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư gần 9 tỷ USD đã góp phần làm tăng dự trữ ngoại hối, thị trường ngoại tệ và tỷ giá ổn định, nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng; tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm; văn hóa, xã hội, cải cách hành chính có cải thiện tích cực. An ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, hoạt động đối ngoại được tăng cường. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững.

Đại biểu Phạm Huy Hùng đóng góp ý kiến tại phiên họp tổ (đoàn ĐBQH TP.Hà Nội)
(Ảnh: Phú Khánh)

Năm 2013, Chính phủ đã khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013. Ngay từ đầu năm đã ban hành các Nghị quyết chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội (số 01/NQ-CP) và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu (số 02/NQ-CP). Kinh tế - xã hội 4 tháng đã có những chuyển biến tích cực.

1. Tập trung thực hiện nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát

Đã kiểm soát, điều chỉnh giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý; bảo đảm cung - cầu hàng hoá thiết yếu, ổn định giá cả, thị trường, nhất là trong các dịp Lễ, Tết. Giá tiêu dùng tháng 4 năm 2013 tăng 2,41% thấp hơn cùng kỳ năm trước (2,6%) và là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ 4 năm qua.

Mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2 - 3%/năm so với cuối năm 2012. Dư nợ tín dụng đã tăng trở lại qua các tháng, tính đến cuối tháng 4 tăng 2,11%, cao hơn so với cùng kỳ năm 2012 (4 tháng đầu năm 2012 giảm 0,2%). Thị trường ngoại hối và tỷ giá tương đối ổn định; dự trữ ngoại hối tăng cao, đạt trên 12 tuần nhập khẩu; niềm tin vào đồng tiền Việt Nam được nâng lên. Thị trường vàng được quản lý tốt hơn theo cơ chế mới, góp phần ổn định tỷ giá và kinh tế vĩ mô. Hoạt động của các tổ chức tín dụng an toàn, thanh khoản tiếp tục được cải thiện.

2. Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh đạt được kết quả bước đầu

Miễn, giảm thuế; tiếp tục tập trung tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao; mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu; hỗ trợ lãi suất thu mua tạm trữ lúa gạo; triển khai một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I tăng 4,89%, cao hơn cùng kỳ năm trước (4,75%).

3. Tiếp tục tập trung chỉ đạo tái cơ cấu kinh tế và đã đạt được những kết quả nhất định

Đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2013 - 2020. Các Bộ, cơ quan, địa phương đang xây dựng và thực hiện Chương trình hành động tái cơ cấu theo chức năng, nhiệm vụ được giao.

Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu đầu tư theo Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sớm phân bổ kế hoạch vốn năm 2013 và đẩy nhanh giải ngân cho các công trình, dự án quan trọng, cấp bách về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục...

Tiếp tục thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và Đề án xử lý nợ xấu đã được phê duyệt. Đã triển khai đồng bộ các giải pháp tái cơ cấu đối với những ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém.

4. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội tiếp tục được quan tâm và cơ bản được bảo đảm.

5. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, môi trường, văn hóa xã hội tiếp tục có bước tiến bộ.

6. Công tác cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng, lãng phí, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) đạt những kết quả thiết thực.

II/ Về một số vấn đề Quốc hội và cử tri quan tâm trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng.

Thứ nhất, về lãi suất, từ cuối năm 2011 đến nay, mặt bằng lãi suất đã liên tục được điều chỉnh giảm, trong đó lãi suất cho vay giảm mạnh và nhanh hơn so với lãi suất huy động. Chỉ trong vòng hơn 1 năm, lãi suất huy động VND đã giảm 4-9%/năm và lãi suất cho vay giảm từ 7-11%/năm, đưa mặt bằng lãi suất về mức thấp hơn năm 2007, định hướng điều hành giảm khoảng 1%/quý  trong năm 2012 theo cam kết của Thống đốc NHNN, điều đó thể hiện quyết tâm chính trị của NHNN và ngành Ngân hàng trong nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải, Chủ tịch HĐQT VietinBank Phạm Huy Hùng
cùng lãnh đạo một số bộ, ban ngành Việt Nam, Đức cắt băng khai trương chi nhánh

VietinBank Cộng hòa Liên bang Đức (VietinBank German Branch) tại Frankfurt

Gần đây nhất, việc quyết định giảm thêm 1% đối với các mức lãi suất điều hành và lãi suất cho vay tối đa VND đối với 5 lĩnh vực ưu tiên, trong khi vẫn duy trì mức lãi suất huy động tối đa 7,5% là hợp lý của NHNN trong nỗ lực tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay, nhưng vẫn đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền và hỗ trợ tín dụng cho một số lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên.

Các tổ chức tín dụng cũng rất nỗ lực tiết kiệm chi phí, giảm lợi nhuận để điều chỉnh giảm lãi suất xuống mức thấp hơn mức trần quy định của NHNN đối với cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, nhiều ngân hàng cạnh tranh giảm mạnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng có phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, những vẫn không tăng được tín dụng. NHTMCP Công Thương Việt Nam ở các thời điểm đều thực hiện lãi suất tín dụng thấp nhất so với các NHTM khác, nhưng đến 15/5 tổng đầu tư cho vay giảm 4,1% so với 31/12/2012 (cùng kỳ năm 2012 tăng 3%).

Vì vậy, có thể thấy ngành Ngân hàng đã tận dụng tối đa cơ hội có thể để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay và đến nay lãi suất đã không còn là rào cản đối với vấn đề tiếp cận vốn của doanh nghiệp và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, về tăng trưởng tín dụng, đến nay nhiều ý kiến vẫn cho rằng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vốn với mức lãi suất hợp lý. Chúng tôi cho rằng:

Bản thân các ngân hàng cũng là doanh nghiệp. Với chức năng đi vay để cho vay, việc không cho vay ra được trong khi nguồn huy động của các ngân hàng khá dồi dào dẫn đến ngân hàng rơi vào tình cảnh “tồn đọng tiền” và tạo áp lực rất lớn cho các ngân hàng, làm suy giảm đáng kể lợi nhuận của ngân hàng. Để đẩy vốn ra, các NHTM đã giao khoán chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đến từng chi nhánh và từng cán bộ tín dụng. Có thể nói rằng, toàn hệ thống ngân hàng đang “đốt đuốc” tìm khách hàng để cho vay, các ngân hàng cạnh tranh rất khốc liệt trong việc tìm kiếm các khách hàng tốt. Để thu hút khách hàng, có những ngân hàng đã cạnh tranh cho vay với lãi suất thấp dưới lãi suất huy động.

Như vậy, khó khăn trong tiếp cận vốn vay không phải do ngành Ngân hàng không muốn cho vay hay do lãi suất cao. Vấn đề cốt lõi hiện nay là sức mua của nền kinh tế vẫn giảm sút, hàng tồn kho vẫn lớn, năng lực tài chính và những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện.

Hiện nay, những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt hoặc được coi là làm ăn được có tư tưởng hoạt động cầm chừng, chưa mạnh dạn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nên không có nhu cầu vay hoặc nhu cầu vay thấp. Một bộ phận doanh nghiệp khác có nhu cầu vay vốn thì không có phương án kinh doanh khả thi, tiềm ẩn rủi ro cao, vốn cho vay ra không có khả năng thu hồi, nếu ngân hàng cho vay đối với nhóm doanh nghiệp này thì trong tương lai gần sẽ làm nợ xấu gia tăng lớn và quay trở lại ảnh hưởng trực tiếp đến dòng vốn bơm cho nền kinh tế, chúng ta lại lao vào vòng luẩn quẩn như trong quá khứ, nặng hơn và không thể tháo gỡ được.

Như vậy, vấn đề quan trọng hiện nay vẫn là kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng, giải phóng hàng tồn kho và khôi phục niềm tin cho thị trường. Nhiệm vụ này cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành và cả xã hội.

Thứ ba, về nợ xấu, chúng ta cần có cái nhìn khách quan hơn về nợ xấu. Nợ xấu không phải do ngân hàng tạo ra mà do các doanh nghiệp, khách hàng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng dẫn đến nợ xấu tại hệ thống ngân hàng gia tăng. Vì vậy, nợ xấu thực chất là của nền kinh tế, không phải của hệ thống ngân hàng và một mình ngành Ngân hàng không thể giải quyết được triệt để vấn đề này. Đây được xem là “cục máu đông”, nếu không được xử lý sẽ làm cho nguồn vốn tín dụng không lưu thông được.

Với trách nhiệm quản lý, từ năm 2012, NHNN đã rất nỗ lực giải bài toán nợ xấu với 2 biện pháp, Tôi cho là rất hiệu quả và quyết liệt. Thứ nhất là ban hành quyết định 780 cho phép các tổ chức tín dụng được cơ cấu lại nợ, đây được xem là cứu cánh tạm thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Thứ hai là ban hành chế tài xử lý nghiêm đối với tổ chức tín dụng không trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro theo quy định và yêu cầu các tổ chức tín dụng tích cực sử dụng nguồn dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu. Nhờ đó, các tổ chức tín dụng đã tích cực cơ cấu lại nợ được trên 270.000 tỷ đồng và xử lý được khoảng 60.000 tỷ đồng nợ xấu từ nguồn dự phòng rủi ro.

Như vậy, thông qua 2 biện pháp này của NHNN, hệ thống ngân hàng đã xử lý được trên 330.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu tình hình kinh tế tiếp tục diễn biến không thuận lợi thì những khoản nợ đã cơ cấu lại thời gian qua sẽ lại trở thành nợ xấu vầ gây áp lực lớn cho hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Để xử lý triệt để nợ xấu, việc NHNN báo cáo Bộ Chính trị và trình Chính phủ Đề án tổng thể xử lý nợ xấu là bước đi cần thiết, hợp lý.

Như chúng ta đã thừa nhận, xử lý nợ xấu là vấn đề rất phức tạp, mất nhiều thời gian và tốn kém nên cần có sự đồng thuận cao và có giải pháp đột phá khả thi để xử lý trong thời gian sớm nhất. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, hầu hết các nước đều cần đến sự hỗ trợ từ NSNN hoặc vốn vay từ nước ngoài để xử lý nợ xấu. Vì vậy, Quốc hội, Chính phủ cũng nên cân nhắc phương án dùng NSNN hoặc cho phép vay vốn từ nước ngoài hoặc sử dụng một phần quỹ dự trữ ngoại hối để thúc đẩy nhanh hơn quá trình xử lý nợ xấu và sớm khơi thông nguồn vốn phát triển sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, thúc đẩy nền kinh tế trở lại đà tăng trưởng.

Thứ tư, về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Tôi đồng tình với nhận định của nhiều chuyên gia cho rằng Nghị định 24/2012/NĐ-CP được ban hành là quyết sách đúng đắn và có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế nói chung và thị trường tiền tệ, ngoại hối, ngân hàng nói riêng.

Sau hơn 1 năm triển khai tích cực của cơ quan quản lý Nhà nước là NHNN, thị trường vàng từ chỗ diễn biến vô cùng phức tạp, kéo theo sự bất ổn của tỷ giá và thị trường ngoại tệ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô thì nay đã duy trì được sự ổn định và không còn cảnh người dân đổ xô đi mua, bán vàng như trước đây, tình trạng nhập lậu vàng đã giảm hẳn, nhờ đó nguồn cung ngoại tệ đã được cải thiện mạnh mẽ, các nhu cầu ngoại tệ chính đáng của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, tỷ giá ổn định, niềm tin vào đồng Việt Nam gia tăng, lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng nhiều, giúp cải thiện mạnh mẽ cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước lên mức kỷ lục. Đây là những kết quả vô cùng quan trọng góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và cần được Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao.

III/ Giải pháp cho năm 2013  

 1/ Cần hoàn thiện đề án tái cấu trúc nền kinh tế tổng thể, vững chắc, Xác định rõ mục tiêu, kế hoạch, lộ trình cụ thể từng nội dung để thực hiện được tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó trọng tâm là thực hiện xác lập được các cân đối kinh tế vĩ mô lớn của đất nước một cách vững chắc, có nhiệm vụ cụ thể của từng bộ, từng ngành, từng địa phương để thực hiện thành công, có kết quả mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế, giải quyết vấn đề ổn định vĩ mô, kìm chế lạm phát cả trong ngắn hạn, dài hạn.

Các bộ ngành trung ương, các địa phương cần chỉ đạo, có các giải pháp quyết liệt kích cầu để xử lý hàng tồn kho, nợ xấu, tháo gỡ nút thắt từ phía doanh nghiệp, hỗ trợ phục hồi và kích thích hoạt động sản xuất kinh doanhcủa doanh nghiệp, giải quyết tảng băng bất động sản.

2/ Cải cách hành chính

Tạo sự chuyển biến rõ rệt về kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước. Tiếp tục triển khai đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa một số dịch vụ công gắn với tinh giản bộ máy tổ chức, biên chế, tái cấu trúc mạnh mẽ nền tài chính công. Phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước ở từng cấp. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch và định hướng phát triển. Nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ công chức, viên chức về chuyên mô, nghiệp vụ và phẩm chất chính trị. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động và giám sát của các cơ quan nhà nước gắn với việc đổi mới phương thức điều hành của hệ thống hành chính.

3/ Rà soát cơ chế, chính sách không hợp lý

Rà soát cơ chế chính sách không hợp lý (chính sách đất đai; cơ chế tài chính đối với DN, cơ chế giám sát, cơ chế tiền lương, chính sách thuế...), rút ngắn khoảng cách từ chính sách đến thực tế để đẩy nhanh quá trình phát triển của nền kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng.

Nhanh chóng khắc phục các cơ chế, chính sách không hợp lý, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống của người dân và trật tự xã hội, sử dụng có hiệu quả các công cụ kiểm soát hoạt động của các TCTD, nắm bắt các tín hiệu thị trường để kịp thời điều chính, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.

4/ Đối với từng lĩnh vực tái cơ cấu

- Tái cơ cấu DNNN, tập đoàn, tổng công ty:

Hoàn thiện thể chế quản lý DNNN, quản lý vốn nhà nước tại DN có vốn nhà nước gắn với việc xây dựng luật quản lý sử dụng vốn nhà nước. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa phù hợp với từng loại doanh nghiệp, hoặc thực hiện giải thể, phá sản bắt buộc do thua lỗ kéo dài. Ban hành cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả và công khai tài chính, quản trị doanh nghiệp.  Do đặc thù ở Việt nam, kinh tế không tách rời chính trị, vì thế khi hệ thống cộng đồng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đổ vỡ, việc giải quyết vấn đề này, không chỉ là hạ lãi suất cho vay  đối với doanh nghiệp, bởi hàng tồn kho không bán được, thì lãi suất có tiếp tục giảm cũng chưa giúp được họ, trong khi cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ, giãn nợ, miễn lãi... đều được các TCTD triển khai mạnh mẽ từ giữa năm 2012. Điều cần hơn lúc này là nhà nước (các bộ ngành) và xã hội cần chia sẻ nhiều hơn với cộng đồng doanh nghiệp, tạo điều kiện, cơ hội để cộng đồng doanh nghiệp vượt lên được khó khăn hiện nay để phát triển.

- Tái cơ cấu hệ thống NHTM:

Xác định rõ tái cơ cấu ngân hàng là vấn đề phức tạp, cần triển khai việc xử lý nợ xấu bằng một đề án minh bạch. Mục tiêu cần đạt được sau tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: yêu cầu quản trị công ty, công nghệ, năng lực tài chính, nguồn nhân lực, chuyển đổi tổ chức, chất lượng hoạt động đối với các ngân hàng cần đạt theo chuẩn quốc tế khi Việt Nam đang hội nhập nhanh với quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá ở các NHTM Nhà nước; giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý, để tăng năng lực tài chính; đổi mới hệ thống quản trị nội bộ ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

Tăng cường hiệu quả giám sát của NHNN, buộc  tất cả các NHTM phải công bố thông tin minh bạch hàng quý, năm. NHNN cần làm rõ thực chất yếu kém, hạn chế của từng ngân hàng, xây dựng những tiêu chí cho hoạt động ngân hàng Việt Nam hướng tới thông lệ quốc tế. 

(* Tiêu đề bài viết do Báo ANTĐ đặt)