Nhớ Đoàn kịch Công an Hà Nội một thời

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Cuối năm 1953 đầu năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc có những bước ngoặt quan trọng. Việt Minh chuyển sang thời kỳ tổng phản công, còn quân Pháp thì gấp rút xây dựng mạng lưới gián điệp để lại miền Bắc nhằm thực hiện kế hoạch hậu chiến sau khi ký Hiệp định Geneva.

Tại Hà Nội, cuộc chiến âm thầm nhưng khốc liệt giữa lực lượng phản gián Công an Việt Nam với Cơ quan tình báo CIA (Mỹ) và Cơ quan tình báo quân sự chiến lược (Deuxieme Bureau) thuộc Bộ Quốc phòng Pháp xoay quanh bản danh sách các điệp viên sẽ được quân Pháp cài cắm lại miền Bắc. Cuộc đấu trí gay cấn giữa Paul Hách, Henry Thọ, Đại úy Sáu, Bella (tình báo Mỹ), và đặc biệt là Huệ (nữ chiến sỹ tình báo Việt Nam) đã cuốn hút người xem từ đầu đến cuối. Đó là nội dung vở kịch “Bản danh sách điệp viên” của Đoàn kịch Công an Hà Nội.

Bước đi đầu tiên

Là một đoàn nghệ thuật không chuyên tham gia Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn miền Bắc, vở kịch “Bản danh sách điệp viên” đã đoạt Huy chương Vàng cho tác giả kịch bản Văn Báu và 7 Huy chương Vàng khác cho các vai diễn: Vũ Tăng (vai Đại úy Henry Thọ), Bích Hoàn (vai Huệ, nữ chiến sỹ tình báo Việt Nam), Ngô Tỵ (vai nhân viên tình báo CIA), Minh Nguyệt (vai Bella, nhân viên tình báo CIA), Phùng Pha (vai Đại úy Phòng Nhì Pháp), Doãn Ngọc Tú (vai Trung tá Phòng Nhì Pháp), Mỹ Bình (vai Mary Nhung). Vở kịch liên tục được công diễn suốt những năm 1970 cho đến nhiều năm sau và còn được nhiều đoàn dựng lại.

Đầu năm 1970, đồng chí Văn Báu - Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Lao động thuộc Sở Công an Hà Nội hoàn thành kịch bản đầu tay “Bản danh sách điệp viên”. Kịch bản được Ban Giám đốc Sở Công an Hà Nội (tức CATP Hà Nội ngày nay) và lãnh đạo Bộ Công an chấp thuận. Ngay lập tức, các cán bộ, chiến sỹ thuộc Văn phòng Sở, các lực lượng Cảnh sát PCCC, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát quản lý trị an, Phòng Bảo vệ chính trị, CAQ Hoàn Kiếm, CAQ Ba Đình và tác giả kịch bản Văn Báu được điều động về Phòng Công tác Chính trị để thành lập Đội kịch Công an Hà Nội. Lớp diễn viên thế hệ đầu tiên gồm các anh, chị: Đội trưởng Doãn Ngọc Tú, Đội trưởng Văn Thanh (đồng chí Văn Thanh làm Đội trưởng thay thế khi đồng chí Doãn Ngọc Tú trở về đơn vị cũ), Vũ Tăng, Phùng Pha, Ngô Tỵ, Quốc Toán, Văn Phú, Ngọc Mạnh, Tạ Khắc Đàm, Nguyễn Quang, Gia Độ, Bích Hoàn, Minh Nguyệt, Xuân Phương, Hồng Hải, Mỹ Bình, Tiến Phú, Đức Sầm…

Vở kịch được giao cho đạo diễn Kim Sơn. Trước khi làm đạo diễn, ông là huyền thoại của ngành công an khi tham gia trận đánh cùng Liệt sỹ Nguyễn Thị Lợi đánh chìm thông báo hạm Amyot D'Inville của Pháp trên vùng biển Sầm Sơn (Thanh Hóa), tiêu diệt hơn 200 sỹ quan, binh lính Pháp và hàng trăm tấn vũ khí đạn dược. Vốn hiểu biết về lĩnh vực tình báo và là người đã trải qua những ngày Pháp còn tạm chiếm Thủ đô, đạo diễn Kim Sơn đã tái hiện chính xác hình ảnh Hà Nội những ngày trước khi Pháp rút quân. Vì thế, ông đã đẩy các xung đột trong kịch bản lên cao trào, cuốn hút người xem từ đầu đến cuối. Vở diễn được họa sĩ Phùng Huy Bính thiết kế mỹ thuật, nhạc sĩ Kiều Linh viết nhạc và thu âm.

Trên sàn tập, những chiến sỹ công an - diễn viên nghiệp dư răm rắp tuân theo chỉ dẫn của đạo diễn Kim Sơn. Là người cầu toàn, có những phân cảnh ông đã ưng ý nhưng sau đấy lại hủy và cho tập lại. Ông trau chuốt ngôn từ, thị phạm cho diễn viên các động tác đặc trưng của từng nhân vật cho phù hợp với giai đoạn lịch sử của vở diễn. Với diễn viên đóng các vai là người nước ngoài, ông luôn căn chỉnh để ai cũng nghe thấy chất giọng lơ lớ của người phương Tây nói tiếng Việt, nhưng vẫn phải “tròn vành rõ chữ” để hệ thống micro treo trên cao “bắt được” và khán giả phải hiểu ngay lời thoại. Ngay tác giả Văn Báu cũng phải luôn theo sát đạo diễn Kim Sơn để đỡ lời cho các diễn viên mới vào nghề: “Thưa thầy, chúng em là chiến sỹ công an. Năng khiếu và trình độ diễn xuất còn hạn chế, mong thầy kiên nhẫn ạ”.

Mùa hè năm 1970 đột nhiên nóng kinh khủng, cả đội kịch phải xin tập ban đêm để tránh cái nắng oi ả. Từ Ban Giám đốc cho đến các phòng, ban, khu, huyện, thậm chí cả các tiểu khu… đều ủng hộ đường, sữa cho đội kịch. Toàn Công an Hà Nội ai cũng muốn góp sức với Đội kịch cho buổi công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội đúng dịp kỷ niệm 8 năm ngày Hồ Chủ tịch ban hành Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân (20-7-1962 / 20-7-1970).

Vở kịch “Bản danh sách điệp viên” đã gây tiếng vang lớn ngay khi ra mắt sân khấu Thủ đô, trở thành “hiện tượng” của sân khấu Việt Nam. Sau Nhà hát Lớn là các rạp Công nhân, Hồng Hà, Đại Nam, Đống Đa… và cả các bộ, ngành cũng muốn đón Đội kịch Công an Hà Nội về diễn. Vì vở kịch quá hút khách nên hiện tượng phe vé bắt đầu xuất hiện, nhất là tại rạp Đại Nam, khiến đồng chí Lê Đình Thảo - Giám đốc Sở Công an Hà Nội lúc đó phải giao nhiệm vụ cho 2 đồn công an ở khu vực Ngô Thì Nhậm và Bùi Thị Xuân đảm bảo an ninh trật tự cho các đêm diễn.

Những hình ảnh về Đoàn kịch Công an Hà Nội năm xưa

Những hình ảnh về Đoàn kịch Công an Hà Nội năm xưa

Vang bóng một thời

Những ngày ấy, Đội kịch Công an Hà Nội đi diễn liên tục không có ngày nghỉ. Tại các rạp ngày nào cũng có tình trạng khán giả đến “đặt gạch” để xếp hàng chờ mua vé từ lúc tinh mơ như ở các cửa hàng lương thực, thực phẩm trong thành phố. Đội kịch Công an Hà Nội đã thăng hoa cùng với vở kịch “Bản danh sách điệp viên”. Cũng nhờ tập thể cán bộ, diễn viên Đội kịch Công an Hà Nội, đạo diễn Kim Sơn đã có dịp giới thiệu một cách chân thực những người đồng chí của mình trên trận tuyến bảo vệ an ninh quốc gia thời chống Pháp. Ông đã trả được mối ân tình với những đồng đội đã nằm xuống năm xưa.

Đội kịch về sau được bổ sung thêm lực lượng, đa phần được đào tạo chính quy như các diễn viên: Đặng Tất Bình (sau là NSND), Thanh Mai, Tuyết Minh, Nguyệt Minh, Kim Thu, Mộng Thoa, Ninh Vinh, Mỹ Lý… Năm 1976, Ban Giám đốc Sở Công an Hà Nội quyết định tuyển dụng thêm lớp diễn viên được đào tạo chuyên nghiệp từ Trường Sân khấu - Điện ảnh gồm các diễn viên: Vũ Độ, Thế Hữu, Hoa Lê, Trà Vinh, Thúy Hoan, Thu Hương… các nhạc công Tuấn Hải (sau là NSND), Kim Hưng, Đoàn Vinh, Phương Đông. Đội còn có thêm các đồng chí Đỗ Bằng (Đoàn Quân khu 3), Phúc “kèn”, Kim Lan (Đoàn Ca múa Hà Tây), Đào Nhung (Trường Nhạc Việt Nam), các diễn viên Dư Hòa, Kim Thanh, Bích Thủy…

Khi quân số đã đông đủ, Đội kịch Công an Hà Nội còn có thêm mảng ca múa nhạc phục vụ nhân dân và cán bộ, chiến sỹ trong ngành. Năm 1982, Bộ Văn hóa công nhận Đội kịch Công an Hà Nội được lên quy chế chuyên nghiệp và đổi tên thành Đoàn kịch Công an Hà Nội. Đoàn đã dựng nhiều vở mới, gặt hái rất nhiều thành công trên các sân khấu trong nước như các vở “Quán Trúc đào”, “Khi tan cơn bão”, “Sống ngoài tiêu chuẩn”, “Thủ phạm là ai”, “Hương “gai”, “Ngôi sao cô đơn”, Kẻ “rỗi hơi”...

Bên cạnh lượng khán giả trung thành ở Thủ đô, Đoàn kịch Công an Hà Nội còn thực hiện các chuyến lưu diễn dài ngày tới mọi vùng miền của Tổ quốc. Có những nơi như Bảo Lộc, Nam Ban ở Lâm Đồng, Đoàn còn ở lại đến vài tháng trời để phục vụ chủ yếu cho những bà con Hà Nội vào xây dựng khu kinh tế mới.

Mùa hè năm 1990, sau 20 năm lừng lẫy trên sân khấu nghệ thuật Thủ đô và cả nước, Đoàn Kịch Công an Hà Nội giải thể. Những khó khăn thời bao cấp và những quy luật kinh tế thị trường đã khiến Công an Hà Nội không thể duy trì hoạt động của một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, để lại sự tiếc nuối trong lòng khán giả.

Suốt 20 năm tồn tại, Đoàn Kịch Công an Hà Nội là đơn vị nghệ thuật số 1 của ngành công an và là một đoàn nghệ thuật có bản sắc, có chỗ đứng vững vàng trong lòng người yêu nghệ thuật nói chung và khán giả Thủ đô nói riêng.

Năm 2005, với sự biết ơn, tri ân, Báo An ninh Thủ đô khi đó đã lần đầu tiên tái hợp Đoàn kịch Công an Hà Nội với những thành viên năm xưa. Dưới bàn tay ma thuật của NSND Tuấn Hải, tác phẩm “Bản danh sách điệp viên” một lần nữa bùng cháy trên sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội và tham gia Liên hoan sân khấu hình tượng người chiến sỹ CAND lần thứ nhất. Những diễn viên từ đoàn kịch dù đã trở về các vị trí công tác của lực lượng Công an Thủ đô nhưng khi tái hợp tạo nên một sức mạnh, sự thăng hoa và vở diễn đã vinh dự giành Huy chương Vàng tại liên hoan năm ấy…