Lừa mua bán súng giả, phạm tội gì?

ANTD.VN - Nguyễn Quốc A. (SN 1970) nhờ Phùng Đình T. (SN 1983) mua khẩu súng ngắn K59. T. đã liên lạc với Hoàng Văn Q. (SN 1985) mua súng nhựa (với giá 500.000 đồng) cho A. nhằm kiếm tiền chia nhau. Sau đó Q. đưa cho A. khẩu súng nhựa đựng trong hộp và nhận số tiền 8 triệu đồng.

Lừa mua bán súng giả, phạm tội gì? ảnh 1

(Ảnh minh họa)

Nội dung vụ việc

Sau khi về nhà phát hiện là súng giả nên A. liên tục gọi điện cho T. mua thêm một khẩu súng và đạn cho khẩu súng trước. Lần này, T. tiếp tục bàn với Q. bán súng giả cho A. Sau khi biết khẩu súng thứ hai cũng là giả nên A. gọi điện đòi T. số tiền mà mình đã nhờ mua súng.

Bị A. đòi tiền nên T. đã gọi Q. gặp để giải quyết nhưng không được. Sau đó A. gọi điện thoại trực tiếp cho Q. hẹn gặp tại quán cà phê của Nguyễn Đức B. (SN 1979) để mua súng. Tại đây A. đã yêu cầu Q. phải trả lại A. số tiền đã mua súng giả và dùng điếu cày đánh vào đầu Q. chảy máu. A. dùng dao gí vào cổ yêu cầu Q. phải trả số tiền.

Thấy Q. chảy máu nên A. và B. bảo Q. vào nhà tắm để rửa và mua bông băng về băng bó vết thương. Sau đó A. và B. yêu cầu Q. gọi điện thoại cho T. đem tiền đến trả mới cho về và yêu cầu Q. vào trong nhà bếp chờ. Khi T. đến quán cà phê thì bị B. mắng chửi, đánh và bắt vào ngồi trong bếp ngồi cùng với Q. Sau đó các đối tượng bị cơ quan công an bắt giữ.

Vấn đề đặt ra là trong vụ việc này, các đối tượng phạm tội gì?

 Ý kiến bạn đọc

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bắt giữ người trái pháp luật

Hành vi của Phùng Đình T. và Hoàng Văn Q. trong vụ việc này đã phạm tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174, Bộ luật Hình sự 2015. Mặc dù được Nguyễn Quốc A. đặt vấn đề mua một khẩu súng K59, nhưng việc T. và Q. có hành vi mua súng nhựa với giá tiền thấp hơn để lừa bán cho A. đã thể hiện ý đồ gian dối của 2 đối tượng này nhằm mục đích chiếm đoạt tiền của A. Hành động lừa đảo này của T. và Q. diễn ra nhiều lần nên đã thể hiện rõ ý chí chủ quan của các đối tượng này. Còn đối với Nguyễn Quốc A. và Nguyễn Đức B., với hành vi nhốt Q. vào bếp rồi yêu cầu T. mang tiền đến trả thì mới thả đã có dấu hiệu phạm tội bắt giữ người trái pháp luật.

Nguyễn Thùy Linh (Ba Đình - Hà Nội)

Mua bán trái phép vũ khí 

Trong vụ án này Nguyễn Quốc A. đã nhờ Phùng Đình T. mua súng K59, đây được xác định là loại vũ khí quân dụng vì điểm a, Khoản 2, Điều 3, Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ quy định: “Vũ khí quân dụng gồm: a) Súng cầm tay hạng nhỏ là vũ khí được thiết kế cho cá nhân sử dụng gồm súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên và các loại súng khác có tính năng, tác dụng tương tự”. A., T. và Hoàng Văn Q. có thống nhất hành vi mua bán trái phép vũ khí quân dụng (súng K59) là đã cấu thành tội phạm theo Điều 304, Bộ luật Hình sự 2015.

Vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc do đâu mà có; không phụ thuộc vào vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác đó là thật hay giả, còn tác dụng hay đã mất tác dụng. Do đó các đối tượng A., T. và Q. đã phạm tội mua bán trái phép vũ khí.

Đinh Trọng Thắng (Ý Yên - Nam Định)

Hành vi cướp tài sản

Trong vụ việc này cần phải xử phạt Phùng Đình T. và Hoàng Văn Q. về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tiền. Còn đối với Nguyễn Quốc A. và Nguyễn Đức B., các đối tượng này đã có hành vi cướp tài sản vì A. và B. đã có hành vi dùng điếu cày đánh (dùng vũ lực) và dùng dao gí vào cổ Q. (đe dọa dùng vũ lực) và sau đó bắt giữ Q. và T. nhằm chiếm đoạt số tiền. Do đó cần phải xử lý các đối tượng này về hành vi cướp tài sản.

Hoàng Đình Trọng (Vũ Thư - Thái Bình)

Bình luận của luật sư

Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Điều 304, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm”. Theo cấu thành cơ bản thì tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng có cấu thành vật chất.

Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có dấu hiệu của mặt khách quan không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó. Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hành vi bị xem là tội phạm khi nó thực tế gây ra một hậu quả cụ thể thỏa mãn yêu cầu của điều luật quy định về tội phạm đó, giữa hành vi và hậu quả phải có mối quan hệ nhân quả.

Nếu có hành vi nhưng hậu quả chưa xảy ra hoặc hậu quả không có mối quan hệ nhân quả với hành vi thì tội phạm coi như chưa hoàn thành. Căn cứ vào cấu thành vật chất có thể thấy Nguyễn Quốc A., Phùng Đình T. và Hoàng Văn Q. không phạm tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng. 

Tuy nhiên, trong vụ việc này T. và Q. đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tiền của A. nên đã có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174, Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm 2 hành vi khác nhau: đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hành vi lừa dối là cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật.

Ở đây, khi được A nhờ mua khẩu súng ngắn K59, T. đã liên lạc với Q. mua súng nhựa với mục đích rõ ràng là để lừa tiền của A. rồi chia nhau. Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của Q. và T. thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp với mong muốn có thể chiếm đoạt được tiền của A. Như vậy, Q. và T. đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174, Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào nội dung vụ việc có thể thấy, xuất phát từ việc hai bên không thực hiện đúng cam kết theo hợp đồng mua bán trái phép vũ khí quân dụng (súng K59) giữa A. với T. và Q. nên A. đã cùng Nguyễn Đức B. uy hiếp, khống chế và đánh Q. để yêu cầu trả lại tiền khiến Q. bị thương tích ở vùng đầu, chảy máu. Sau đó A. và B. đã giữ Q. ở trong bếp, yêu cầu Q. gọi điện cho T. mang tiền đến trả thì mới thả ra.

Để xác định hành vi nêu trên của A. và B. có cấu thành tội phạm hay không cần căn cứ theo cấu thành cơ bản của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo Điều 157 và cấu thành cơ bản của tội cố ý gây thương tích theo Điều 134, Bộ luật Hình sự 2015. Theo chúng tôi, hành vi nêu trên của A. và B. không phạm tội bắt giữ người trái pháp luật. Bởi lẽ, sau khi đánh Q. chảy máu, A. và B. đã bắt Q. gọi điện thoại cho T. đem tiền đến trả mới cho về. A. và B. chỉ yêu cầu Q. vào trong nhà bếp chờ, không có hành vi bắt, ép, trói, buộc…

Về hành vi của B. dùng điếu cày đánh vào đầu Q. chảy máu, dùng dao gí vào cổ yêu cầu Q. phải trả số tiền, theo chúng tôi, đây là hành vi có tính chất côn đồ nên theo khoản i, Điều 134, Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm) có tính chất côn đồ”. 

Chúng tôi cho rằng, trong vụ việc này A. và B. không phạm tội cướp tài sản, vì cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản. Dấu hiệu đặc trưng của tội cướp tài sản là “người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự, bị tê liệt ý chí phản kháng, tê liệt sự chống cự”. Ở đây, A. và B. có hành vi dùng vũ lực nhưng không phải ngay tức khắc, làm cho bị hại tê liệt ý chí không thể phản kháng để chiếm đoạt tài sản. Thể hiện ở việc sau khi Q. bị chảy máu thì A. và B. đã mua bông băng để băng vết thương. Điều đó chứng tỏ Q. không bị lâm vào tình trạng không thể chống cự.

Luật sư Hoàng Quốc Định (Văn phòng Luật sư Hoàng và Cộng sự)