Hẹn gặp giao dịch mua điện thoại rồi chiếm đoạt, phạm tội gì?

ANTD.VN - Ngày 24-5, Trần Quốc Hùng đặt mua của anh Vũ Tuấn T. 2 chiếc điện thoại di động (ĐTDĐ) nhãn hiệu iPhone 7 Plus qua mạng xã hội Facebook...

Đến ngày 27-6, anh Vũ Tuấn T. gọi điện thông báo đã có điện thoại và hẹn trong ngày sẽ mang hàng giao cho Hùng. Lúc này, Hùng nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại nên đã hẹn anh T. đến tối sẽ gặp để lấy ĐTDĐ và địa điểm giao hàng tại khu vực gần nhà bà Hoàng Thị Tú vì Hùng biết nhà bà Tú có nhiều lối đi sau nhà.

Khoảng 20h giờ cùng ngày, anh T. đi cùng bạn đến điểm hẹn để gặp Hùng. Hùng nói dối anh T. nhà bà Tú là nhà mình và quên chìa khóa và phải ngồi đợi vợ về mở cửa lấy tiền. Tại đây, hai bên thỏa thuận 1 chiếc ĐTDĐ giá 24 triệu đồng, rồi Hùng bảo anh T. mở hộp chiếc ĐTDĐ iPhone 7 Plush đưa cho Hùng xem và hướng dẫn cách sử dụng. Trong khi đang xem điện thoại, Hùng cầm chiếc ĐTDĐ trên tay bước đi nhanh ra phía sau nhà bà Tú, vừa đi vừa nói “Anh đi lấy chìa khóa” rồi bước nhanh bỏ đi. Thấy vậy, anh T. và bạn đuổi theo nhưng Hùng đã đi nhanh lối phía sau nhà ra bãi ngô ven bờ sông rồi chạy thoát. Anh T. và bạn đuổi theo không tìm thấy Hùng, nên đã đến công an trình báo.

Vấn đề đặt ra là trong vụ việc này hành vi của Trần Quốc Hùng đã phạm tội gì?

Ý kiến bạn đọc

Công nhiên chiếm đoạt tài sản

Trong vụ việc này với hành vi chiếm đoạt chiếc ĐTDĐ iPhone 7 Plus của anh Vũ Tuấn T., Trần Quốc Hùng đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Theo quy định của pháp luật, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai lấy tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự vướng mắc của người quản lý tài sản để lấy tài sản trước mắt họ mà không làm gì được. Có thể thấy, Trần Quốc Hùng đã công khai lấy ĐTDĐ trước mặt anh T. và bạn rồi sau đó bỏ chạy. Do đó hành vi của Hùng đã đủ cơ sở để cấu thành tội này.

Nguyễn Văn Thành (Bảo Thắng - Lào Cai)

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là chiếm đoạt, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Mà thủ đoạn gian dối của người phạm tội ở đây, bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người bị hại và người phạm tội, thì mới được xem là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo như nội dung vụ việc, khi anh Vũ Tuấn T. (chủ tài sản) gọi điện hẹn sẽ mang ĐTDĐ giao cho Hùng, ngay lúc này Hùng đã nảy sinh ý định chiếm đoạt.

Như vậy là Hùng đã có ý định chiếm đoạt rõ ràng trước khi mang tới giao, nên đã tự mình lựa chọn địa điểm, thời gian, để thuận tiện cho việc bỏ trốn khi đã đạt được mục đích. Còn anh T. do cả tin và mất cảnh giác nên đã bị Hùng dùng thủ đoạn gian dối đánh lừa bằng cách đã đưa thông tin không phù hợp với thực tế khách quan nhằm làm cho người tiếp nhận thông tin này cho đó là thật. Như vậy hành vi lừa dối được thực hiện qua lời nói của Hùng đã thành công. Do đó trong vụ việc này Hùng đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139, Bộ luật Hình sự.

Nguyễn Thị Huyền (Lê Chân - Hải Phòng)

Cướp giật tài sản

Trần Quốc Hùng đã có hành vi lừa dối giả vờ thỏa thuận mua ĐTDĐ iPhone 7 Plus của anh Vũ Tuấn T. Khi anh T. đưa chiếc ĐTDĐ cho xem thì Hùng đã nhanh chóng chiếm đoạt, tẩu thoát trong khi tài sản vẫn trong sự quản lý của anh T. Tôi cho rằng Hùng đã phạm tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136, Bộ luật Hình sự.

Trong vụ việc này tuy Trần Quốc Hùng có hành vi gian dối nhưng hành vi này là nhằm mục đích phục vụ cho việc tiếp cận và chiếm đoạt tài sản, không phải là hành vi mang tính quyết định để anh T. tin là sự thật và giao tài sản cho Hùng, vì lúc này điện thoại vẫn nằm trong sự quản lý của anh T. Hùng chiếm đoạt được tài sản là do đã thực hiện hành vi cầm điện thoại trên tay giả vờ xem chức năng rồi nhanh chân bước về phía sau nhà bà Tú nơi có nhiều lối đi, thích hợp cho việc tẩu thoát mà Hùng đã chuẩn bị trước khi hẹn gặp anh T. Anh T. tuy phát hiện được ngay Hùng có ý định chiếm đoạt tài sản và đuổi theo nhưng vì không hiểu địa hình nên anh T. đã để Hùng chạy thoát.

Vì vậy, đây là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát. Do đó hành vi của Trần Quốc Hùng đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 136, Bộ luật Hình sự.

Đỗ Tất Thắng (Phủ Lý  - Hà Nam)

Bình luận của luật sư

Từ nội dung vụ án trên có thể thấy Trần Quốc Hùng đã có sự chuẩn bị từ trước để chiếm đoạt tài sản của anh Vũ Tuấn T. Cụ thể, Hùng biết anh T. bán ĐTDĐ và đã gọi điện đặt anh T. 2 chiếc điện thoại iPhone 7 Plus. Đến khi có điện thoại, Hùng đã chủ động lựa chọn thời gian (vào buổi tối), địa điểm (nhà bà Tú) để nhận điện thoại từ anh T. Việc lựa chọn thời gian, địa điểm của Hùng là nhằm tạo điều kiện để sau khi lấy được điện thoại thì dễ dàng bỏ trốn. Hùng đã có hành vi gian dối để anh T. tin tưởng và giao tài sản cho mình.

Cụ thể: Hùng đã gian dối khi nói nhà bà Tú là nhà của mình và quên đem chìa khóa nên phải chờ vợ mang chìa khóa về. Điều này làm anh T. tin tưởng và đã giao điện thoại cho Hùng xem, kiểm tra trong thời gian chờ đợi. Sau khi cầm được điện thoại, Hùng tiếp tục thực hiện hành vi gian dối khi nói phải đi ra ngoài lấy chìa khóa nhà rồi cầm điện thoại của anh T. bỏ trốn. Việc sau khi Hùng lấy được điện thoại của anh T. đã nhanh chóng bỏ trốn theo đường phía sau nhà bà Tú là hành vi tiếp nối của chuỗi các hành vi lừa dối nêu trên nhằm chiếm đoạt thành công tài sản của anh T. Do vậy, hành vi nhanh chóng bỏ trốn trong trường hợp này không cấu thành tội cướp giật tài sản.

Trong vụ việc này, Trần Quốc Hùng không phạm vào tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 137, Bộ luật Hình sự. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có tính chất công khai, trắng trợn của hành vi thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu giếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản còn người bị hại biết ngay người lấy tài sản của mình (biết mà không thể giữ được). Còn trong vụ việc này là một chuỗi hành vi lừa dối của Trần Quốc Hùng vì vậy nó không thể hiện tính chất công khai, trắng trợn.

Như đã phân tích, Hùng đã có hành vi gian dối để anh T. tin tưởng và giao tài sản cho mình rồi sau đó nhanh chóng bỏ trốn. Hành vi của Hùng trong vụ việc này đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 139, Bộ luật Hình sự. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành cơ bản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mặt khách quan thể hiện ở hai hành vi, đó là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Gian dối trong tội lừa đảo đó là hành vi đưa ra thông tin không đúng sự thật với mục đích để người khác tin đó là sự thật nhằm chiếm đoạt tài sản. Sự gian dối của Trần Quốc Hùng thể hiện ở việc Hùng không có điều kiện mua điện thoại nhưng nói dối với anh T. là mua và hẹn anh T. đem đến nơi để giao, Hùng bảo anh T.  lấy điện thoại ra để xem, bảo anh T. hướng dẫn cách sử dụng, Hùng đã nói với anh T.: “Anh đi lấy chìa khóa” làm cho anh T. tin tưởng, nói cách khác Hùng đã lấy sự giả dối làm phương tiện để tiếp cận được tài sản và chiếm đoạt tài sản.

Hành vi của Hùng trong vụ việc này cũng thể hiện sự xảo quyệt như Hùng đã chuẩn bị trước thời gian vào buổi tối, địa điểm là nhà bà Hoàng Thị Tú, cửa khóa, có nhiều lối đi sau nhà, nên Hùng đã dẫn anh T. và bạn đến đó để giao dịch nhằm dễ lẩn tránh sau khi chiếm đoạt được tài sản. Chính sự xảo quyệt này của Hùng làm cho anh T. không truy tìm được Hùng nhằm làm cho Hùng dễ dàng trốn thoát sau khi chiếm đoạt tài sản của anh T.

Hành vi nhanh chóng tẩu thoát của Hùng ở đây không thể hiện rõ nét, Hùng không nhanh chóng tẩu thoát mà do địa hình khu nhà bà Tú phức tạp nên Hùng dễ lẩn tránh, làm anh T. và bạn khó truy tìm. Đây là điều kiện để Hùng chiếm đoạt tài sản của anh T. 

Như vậy, hành vi của Hùng chiếm đoạt chiếc ĐTDĐ iPhone 7 Plus của anh T. đã hội đủ các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139, Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của Hùng có một tình tiết định khung hình phạt là “dùng thủ đoạn xảo quyệt” theo điểm đ, khoản 2, Điều 140, Bộ luật Hình sự.

Luật sư Phạm Thái Sơn, (Văn phòng Luật sư Sơn Phạm và Cộng sự)