Chuyện tên phố của Hà Nội xưa

ANTD.VN - Thời vua Tự Đức tên phố Hà Nội dựa theo tên phường, hoặc nghề thủ công, hoặc mặt hàng mà con phố đó chuyên buôn bán. Ví dụ phố Hàng Khảm (nay là Hàng Khay) chuyên làm khảm trai, phố Hàng Bài chuyên sản xuất các quân bài lá, Hàng Bạc chuyên chế tác vàng bạc, Hàng Chĩnh chuyên bán các loại chĩnh hay Hàng Buồm là nơi chuyên bán các loại buồm và các sản phẩm đan bằng cói… 

Chuyện tên phố của Hà Nội xưa ảnh 1Phố Hàng Đào khi còn mang tên Pháp là “Rue de la Soie”

1. Cuối thế kỷ 19, sau khi chiếm Hà Nội, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng thành phố theo kiểu đô thị phương Tây, nghĩa là có vỉa hè, cống thoát nước và đánh số nhà. Trong nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ đăng công báo ngày 21-4-1890, tên 71 con phố được chính thức công bố, trong đó có 39 phố bắt đầu bằng chữ Hàng, 10 phố mang tên người Pháp, 2 phố mang tên hai vị vua triều Nguyễn là Gia Long (đầu phố Bà Triệu hiện nay) và Đồng Khánh (nay là Hàng Bài)… Từ văn bản này, tên phố không còn đơn thuần chỉ để gọi như trước, nó đã bao hàm yếu tố chính trị.

Khi phố Paul Bert (bao gồm phố Tràng Tiền và Hàng Khay ngày nay) khánh thành vào năm 1885, bá hộ Nguyễn Hữu Kim ở làng Vũ Thạch (Hàng Khay hiện nay) đã tặng biển tên phố làm bằng khảm trai ghi 3 thứ chữ là Pháp, Hán và Việt. Như vậy có thể nói, biển treo đầu phố Paul Bert là biển tên phố đầu tiên ở Hà Nội.

Để quản lý họ đánh số nhà theo quy định, bắt đầu từ hướng Bắc xuống Nam, từ hướng Đông sang Tây; từ Đông Bắc xuống Tây Nam và Tây Bắc xuống Đông Nam; bên tay phải là số chẵn và tay trái là số lẻ. Các phố cổ vẫn gọi theo tên cũ, nhưng ghi bằng chữ Pháp, phố Hàng Đào họ dịch là “Rue de la Soie”, Hàng Điếu là “Rue des Pipes”.

2. Bảng tên phố viết bằng chữ Pháp, trong khi không phải ai cũng biết tiếng Pháp đã gây ra những chuyện dở khóc dở cười. Việc đặt tên phố quá bất cập nên báo Tương lai Bắc Kỳ (L'Avenir du Tonkin) số ra ngày 14-9-1907 đã cho đăng một bảng đối chiếu chữ Pháp với chữ Việt tên các đường phố Hà Nội dưới tiêu đề “Những chỉ dẫn hữu ích” (Renseignements utiles). Ngay phần trên của bảng đối chiếu, tác giả bài viết phàn nàn: “Nếu nói 10 lần bằng tiếng Pháp với người chạy xe tay: Conduis-moi rue de la Chaux (Hãy đưa tôi đến phố Hàng Vôi) thì sẽ có 9 lần trả lời: Không biết. Nhưng chỉ cần nói với anh ta bằng tiếng Việt: Đi Hàng Vôi thì anh ta hiểu và ngay lập tức quay xe đi đến phố Hàng Vôi”. 

Còn báo “Thức tỉnh kinh tế Đông Dương” phê phán việc đặt tên phố như sau: “Tên Việt Nam dịch ra chữ Pháp thì người Pháp không hiểu, còn tên Pháp thì người bản xứ không hiểu. Song điều đó cũng dễ hiểu vì người Pháp đặt tên phố cho chính người Pháp dùng, chứ đâu phải đặt tên cho người bản xứ dùng”. Việc dùng tên phố bằng tiếng Pháp cũng gây phiền hà cho các bác sĩ, nhà thuốc, văn phòng luật sư vì quảng cáo của họ nhắm tới người Việt Nam. Ví như Boulevard Gia Long thì họ phải chua thêm là phố Hàng Giò, Boulevard Đồng Khánh phải chua thêm là phố Hàng Bài.

Việc lấy tên người Pháp để đặt tên phố khiến nhiều nhà Nho và cả trí thức “Tây học” không hài lòng, một trong số đó là học giả, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh. Ông Nguyễn Văn Vĩnh và một số học giả người Pháp ở Viện Viễn Đông bác cổ đã đề nghị nên lấy tên địa danh nơi phố mới đi qua để đặt tên, đồng thời kiến nghị lấy tên danh nhân và các anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam đặt tên phố, nhưng toàn quyền Đông Dương không chấp nhận. 

Chuyện tên phố của Hà Nội xưa ảnh 2Ngã tư phố Paul Bert - Henri Rivie, nay là ngã tư Tràng Tiền - Ngô Quyền

3. Năm 1908, ông Nguyễn Văn Vĩnh trở thành Ủy viên Hội đồng thành phố Hà Nội và đã có thái độ quyết liệt với vấn đề đó tại các cuộc họp, nhưng chính quyền dứt khoát không nghe. Đến năm 1919, chính quyền bảo hộ lấy tên Đỗ Hữu Vị - một người Việt là phi công trong quân đội Pháp chết trận trong Chiến tranh thế giới  thứ nhất - đặt cho một con phố ở gần cổng thành phía Bắc (nay là phố Cửa Bắc).

Việc đặt tên phố Đỗ Hữu Vị không phải là sự nhượng bộ của chính quyền trước sự bực tức của trí thức Việt Nam mà họ vẫn theo tiêu chí “tôn vinh tất cả những ai vì nước Pháp hoặc có công với nước Pháp”. Năm 1921, họ mới chấp thuận lấy tên danh nhân Việt Nam đặt tên phố, nhưng chỉ có 3 người là quan của các triều đại phong kiến, đồng thời cũng là nhà thơ gồm: Lê Quý Đôn, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Công Trứ. Bảy năm sau, năm 1928, họ chấp nhận lấy thêm tên các danh nhân: Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi đặt tên cho các ngõ chưa có tên.

Tiếp theo năm 1931, chính phủ bảo hộ đồng ý lấy tên các anh hùng dân tộc gồm: Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo để đặt tên phố, nhưng chỉ ở những ngõ nhỏ hẹp. Tên của Lý Thường Kiệt, Đinh Tiên Hoàng được đặt cho 2 ngõ cụt ở khu Hàng Đũa (nay là khu vực phố Ngô Sỹ Liên), vốn là một khu ổ chuột.

Còn thi hào Nguyễn Du thì họ đặt cho một ngõ nhỏ từ Hàng Đào ăn sang Tạ Hiện (nay là Gia Ngư) ngập ngụa xú uế. Còn Trần Hưng Đạo thì đặt tên cho Ngũ Xã, cũng là con ngõ nhỏ ở gần hồ Trúc Bạch. Khi Mặt trận bình dân Pháp lên nắm chính quyền, chính sách với thuộc địa cởi mở hơn, toàn quyền Đông Dương đã nhượng bộ cho ghi thêm tiếng Việt vào biển tên phố. 

Ngày 20-7-1945, bác sĩ Trần Văn Lai được chính phủ Trần Trọng Kim mời làm Thị trưởng Hà Nội. Chỉ trong khoảng thời gian hơn 1  tháng, ông Trần Văn Lai đã làm được nhiều việc lớn, trong đó có việc thay tên phố mang tên người Pháp bằng tên danh nhân Việt Nam hay các nhà tư sản dân tộc đã mất. Khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, bác sỹ Trần Duy Hưng giữ chức Thị trưởng cũng cho đổi tên phố, ngoài thêm tên một số chiến sỹ cách mạng còn lại cơ bản tên phố cũng như ông Trần Văn Lai đã thay đổi.