“Trung Quốc luôn nuôi dưỡng các ý đồ hiếu chiến”

ANTĐ - Taylor Fravel, Giáo sư về chính trị học tại Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) đã khẳng định như vậy khi trả lời phỏng vấn Thời báo New York (The New York Times) - Mỹ về các diễn biến mới nhất ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Học giả Mỹ đã chỉ rõ bản chất Trung Quốc “thích hành động đơn phương”. Ông cũng nhận định rằng, hành động của Trung Quốc càng khiến các quốc gia láng giềng quyết tâm đẩy mạnh hợp tác an ninh hàng hải với Mỹ và Nhật Bản và hợp tác với nhau, để phòng ngừa Trung Quốc.

Giáo sư Taylor Fravel: Ngay tại Trung Quốc, 
vẫn tồn tại sự không đồng tình về “đường chín đoạn” 

Nhắc lại tranh chấp chủ quyền kéo dài giữa Trung Quốc và Việt Nam trên Biển Đông, Thời báo New York không quên lưu ý bạn đọc về sự kiện năm 1974, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bất hợp pháp bằng vũ lực từ tay chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Và phóng viên “Thời báo New York” nêu câu hỏi:

- Tại sao Trung Quốc cố tình đặt giàn khoan dầu Hải Dương 981 ở vị trí cách đường bờ biển của Việt Nam chỉ 120 hải lý và vào thời điểm hiện nay? 

- Giáo sư Taylor Fravel: Lý do nhiều khả năng nhất là chính trị, chứ không phải kinh tế. Xét về mặt kinh tế, khu vực mà giàn khoan Trung Quốc chọc mũi khoan thăm dò có ít trữ lượng dầu lửa và đã được minh chứng. Hơn nữa, để duy trì hoạt động hàng ngày giàn khoan, với chi phí xây dựng khoảng 1 tỷ USD, cực kỳ đắt đỏ và điều này đặt ra câu hỏi tại sao Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) lại thăm dò tại một khu vực với những triển vọng không chắc chắn. Thay vào đó, Trung Quốc nhiều khả năng sử dụng giàn khoan để khẳng định và thực thi quyền tài phán đối với các vùng biển mà Trung Quốc tự cho rằng họ có chủ quyền. Hơn nữa, giữa bối cảnh chuyến công du gần đây của Tổng thống Obama tới khu vực, trong đó có chuyến thăm hai quốc gia cũng có tuyên bố một phần chủ quyền tại Biển Đông là Malaysia và Philippines, Trung Quốc có thể đang cố tình thử thách sự tái cam kết của Mỹ đối với chính sách “xoay trục” tại châu Á. 

Mặc dù vậy, thời điểm hành động của Trung Quốc cũng rất khó hiểu. Nhìn một cách tổng thể hơn, trong vài năm qua, Trung Quốc và Việt Nam đã cải thiện các mối quan hệ và giải quyết các tranh chấp trên biển một cách hòa bình. Họ đã đạt được một thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết tranh chấp trên biển vào tháng 10-2011, thiết lập nhiều đường dây nóng và thành lập các nhóm làm việc về khai thác chung và phân định ranh giới trên biển. Dù đã thỏa thuận như vậy, nhưng hành động như Trung Quốc là điều khó hiểu, khó tin.  

- Với những gì đã diễn ra và với lịch sử đấu tranh chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa, liệu sự việc này có leo thang thành một cuộc xung đột căng thẳng hơn hoặc lớn hơn? 

- Nguy cơ leo thang là có thật. Việt Nam có động cơ mạnh mẽ để ngăn cản Trung Quốc hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, kể cả trong trường hợp khu vực Trung Quốc hạ đặt giàn khoan cụ thể đó có thể không có trữ lượng lớn về dầu khí. Vị trí hạ đặt giàn khoan ở gần cả hai nước đã tạo thuận lợi cho việc triển khai lực lượng hải quân và các lực lượng thực thi luật pháp trên biển. Việc nhiều tàu chen lấn giành quyền kiểm soát tại một khu vực nhỏ làm gia tăng khả năng những đụng độ có thể leo thang thành xung đột vũ trang. Trong một vài năm qua, Việt Nam đã thể hiện sự sẵn sàng sử dụng các tàu thực thi pháp luật trên biển để ngăn chặn cách hành xử hung hăng của Trung Quốc đang đe dọa các lợi ích của Việt Nam. 

Năm 2007, Việt Nam đã nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc tiến hành khảo sát địa chấn tại vùng biển gần Hoàng Sa, ở phía Bắc địa điểm đặt giàn khoan lần này. Năm 2010, các tàu Việt Nam đã bao vây một tàu tuần tra của Trung Quốc thuộc Cục Kiểm ngư tại vùng biển tranh chấp. Giờ đây, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan thậm chí còn thách thức chủ quyền cao hơn đối với Việt Nam. Và điều đó cho thấy Việt Nam có thể tiếp tục lựa chọn các nỗ lực ngăn cản không cho giàn khoan Trung Quốc triển khai các hoạt động tại đó. 

Càng hung hăng hiếu chiến, Trung Quốc càng khiến các quốc gia Đông Nam Á đẩy mạnh
hợp tác an ninh hàng hải với cả Mỹ lẫn Nhật Bản và hợp tác với nhau chặt chẽ hơn

- Liệu Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý để khẳng định giàn khoan của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ, hay liệu có phải hành động của Trung Quốc minh chứng cho những  ý đồ xấu đang được thực hiện trên Biển Đông, khi họ đã “nuốt trọn” Hoàng Sa của Việt Nam? 

-  Việt Nam phản đối vị trí đặt giàn khoan vì hai lý do. Thứ nhất, giàn khoan nằm trong EEZ mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền tính từ đường cơ sở của nước này. Giàn khoan cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 120 hải lý và vì thế nằm trên thềm lục địa của Việt Nam và nằm hoàn toàn trong vùng EEZ 200 hải lý của Việt Nam. Thứ hai, Việt Nam tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và phản đối quan điểm của Trung Quốc rằng không tồn tại tranh chấp. Việt Nam có cơ sở khi phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và quyền tài phán đối với vùng biển lân cận. Theo quan điểm của Việt Nam, giàn khoan của Trung Quốc nằm trong vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào để khoan tại vị trí này. 

- Quan điểm của Mỹ đối với các tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông ra sao và ông nghĩ Mỹ sẽ hoặc nên phản ứng như thế nào? 

- Chính sách của Mỹ là không can thiệp vào vấn đề chủ quyền đối với các cấu trúc tại Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời, Mỹ cũng đã khẳng định các lợi ích then chốt của mình tại khu vực, trong đó có tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và tránh cưỡng bức, hăm dọa trong giải quyết các tranh chấp. Để hỗ trợ một giải pháp hòa bình, Mỹ đã thúc giục Trung Quốc và ASEAN hướng tới một bộ quy tắc ứng xử ràng buộc. Mỹ ủng hộ và hỗ trợ việc sử dụng tòa án quốc tế, chẳng hạn việc Philippines kiện Trung Quốc lên Tòa án trọng tài quốc tế về Luật Biển của Liên hợp quốc mới đây. Phản ứng đối với sự kiện này, Mỹ nên kêu gọi tất cả các bên không thực hiện các hành động đơn phương trong các vùng biển rõ ràng đang có tranh chấp. Mỹ cũng nên nhấn mạnh rằng, sự việc cho thấy sự cần thiết phải có bộ quy tắc ứng xử để kiểm soát những sự leo thang tiềm tàng và tránh các sự việc như vậy trong tương lai. Cuối cùng, Mỹ có thể thúc giục tất cả các bên tìm kiếm những cơ chế lâu dài, có thể giúp các sự việc như vậy sẽ không diễn ra trong tương lai. 

- Ông nghĩ các quốc gia Đông Nam Á khác cũng có tuyên bố chủ quyền một phần tại Biển Đông sẽ phản ứng thế nào trước các hành động mới đây nhất của Trung Quốc? 

- Hành động của Trung Quốc chỉ củng cố vững chắc hơn nhận thức của các quốc gia cũng tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông rằng, Trung Quốc luôn nuôi dưỡng các ý đồ hiếu chiến và thích hành động đơn phương. Cụ thể, việc hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc trong EEZ mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, sẽ làm tăng gấp đôi quyết tâm của các quốc gia Đông Nam Á trong nỗ lực làm tất cả những gì có thể để bảo vệ chủ quyền của mình. Các quốc gia Đông Nam Á nhiều khả năng sẽ đầu tư và củng cố thực lực hải quân, tăng cường khả năng thực thi luật pháp trên biển, đồng thời đẩy mạnh hơn trong hợp tác an ninh hàng hải với cả Mỹ lẫn Nhật Bản và có thể là hợp tác với nhau chặt chẽ hơn. 

- Như vậy là đã rõ: Trung Quốc quyết tâm sử dụng “đường chín đoạn” hay là “bản đồ lưỡi bò” để khẳng định tham vọng chủ quyền của mình tại Biển Đông? 

- Dù “đường chín đoạn” đã xuất hiện trên các bản đồ của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc vẫn im lặng một cách kỳ lạ về ý nghĩa của “đường chín đoạn” này. “Đường chín đoạn” mà Trung Quốc tự ý vẽ ra  không phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Tôi cũng được biết, ngay tại Trung Quốc, những sự không đồng tình vẫn tồn tại về cách thức xác định “đường chín đoạn”. Nội bộ Trung Quốc cũng có người không công nhận “đường chín đoạn”. Tuy nhiên, các hành động của Trung Quốc trong những năm qua, cho thấy  Trung Quốc đang bành trướng và hiện thực hóa  “đường chín đoạn” trên Biển Đông.