Kỷ niệm 25 năm Việt Nam phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển 1982

Tinh thần tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế

ANTD.VN - Là thành viên Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam được quyền có lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà tại đó Việt Nam được hưởng những quyền lợi đối với vùng biển và tài nguyên theo quy định của Công ước là khoảng gần 1 triệu km2, gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. 

Nguyên Đại sứ, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc Nguyễn Phương Nga tại Hội nghị lần thứ 27 các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được tổ chức tại New York từ 12 đến 16-6-2017

Phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã ban hành Luật Biển Việt Nam năm 2012 nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò, khai thác tài nguyên biển và quản lý các vùng biển, thềm lục địa, hải đảo của Việt Nam, cũng như việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc chuyển hóa các quy định của Công ước Luật Biển vào hệ thống pháp luật trong nước, tạo thuận lợi cho việc quản lý thống nhất về biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam.

Cùng với việc ban hành Luật Biển, Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua Bộ Luật Hàng hải 2015, có hiệu lực từ ngày 1-7-2017, điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý và sử dụng biển, đại dương như Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015), Luật Bảo vệ môi trường (2014), Luật Biên giới quốc gia (2003), Nghị định 143/2017/NĐ-CP ngày 14-12-2017 của Chính phủ quy định bảo vệ công trình hàng hải, Nghị định 71/2015/NĐ-CP ngày 3-9-2015 của Chính phủ về quản lý hoạt động của người và phương tiện trong khu vực biên giới biển.

Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả Công ước Luật Biển 1982 để giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về phân định biển ngày 9-8-1997; ký với Trung Quốc Hiệp định và phân định Vịnh Bắc bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc bộ ngày 25-12-2000; ký với Indonesia Hiệp định về phân định thềm lục địa ngày 26-6-2003. Thực tiễn đàm phán, ký kết các văn kiện nêu trên đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quy định của Công ước Luật Biển 1982, đóng góp và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế về phân định biển.

Trên cơ sở các quy định của Công ước, Việt Nam đang thúc đẩy đàm phán phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc; đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia và đàm phán về các vấn đề trên biển với các nước láng giềng khác.

Mặt khác, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Luật Biển 1982. Theo đó, khi bàn về vấn đề tranh chấp Biển Đông, Việt Nam kiên trì yêu cầu “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982”, coi đây như một nguyên tắc để giải quyết và xử lý các tranh chấp liên quan đến biển đảo.

Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC); “Tuyên bố 6 điểm ngày 20-7-2012 của ASEAN về Biển Đông”; dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC, trong đàm phán Việt Nam và các nước thống nhất nguyên tắc COC phải sử dụng UNCLOS làm cơ sở). Với nỗ lực của Việt Nam, nội dung “căn cứ luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để tìm ra giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp tại Biển Đông” đã được đưa vào “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” ký ngày 10-11-2011.

Điều đó cho thấy, Việt Nam không chỉ chủ động thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước mà còn luôn có ý thức thúc đẩy việc tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định của Công ước.

(Còn tiếp)