Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh (3): Xây dựng thiết chế pháp lý hữu hiệu kiểm soát quyền lực

ANTD.VN - Có thể nói, tiêu cực của những người có chức, có quyền là gốc “đẻ” ra tham nhũng. Tham nhũng và tiêu cực luôn gắn liền nhau. Bởi thế, công tác phòng, chống tham nhũng phải gắn liền, đồng bộ với công tác phòng, chống tiêu cực; từ phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa” đến những giải pháp có tính đột phá như xây dựng thiết chế hữu hiệu kiểm soát quyền lực.

Nhìn trực diện, đánh giá đúng

Xuyên suốt kể từ khi trở thành một đảng cầm quyền, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Công tác này đặc biệt được coi trọng khi nền kinh tế thị trường phát triển tại Việt Nam; tiền bạc, vật chất ngày càng trở thành cám dỗ không dễ vượt qua với những người có chức vụ, quyền lực bị suy thoái về đạo đức, lối sống, sa đà vào chủ nghĩa cá nhân, nhu cầu hưởng thụ.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề phòng, chống tham ô, lãng phí. Người coi tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghiệp xây dựng của cách mạng”, là “kẻ thù” của nhân dân, là “tội lỗi đê tiện” nhất trong xã hội.

Trong các bài nói và viết của mình, ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền cho đến sau này, Người rất chú ý đến việc “quét sạch” chủ nghĩa cá nhân, chống các bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí… Những “bệnh” này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt trong một thuật ngữ cổ hơn đó là “bất liêm”, mà ngày nay chúng ta gọi là tham nhũng. Vậy thế nào là tham nhũng? Thông qua định nghĩa chữ “liêm”, Người đưa ra quan điểm: “Liêm là trong sạch, không tham lam” và chỉ ra 2 biểu hiện trong 10 hành vi bất liêm đó là: “Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên; người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư”, tức là không trong sạch, tham lam mà ngày nay, một lần nữa khẳng định đó là tham nhũng.

Từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực Nhà nước trong không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Người chỉ rõ tham ô, lãng phí, quan liêu là ba “kẻ thù” hết sức nguy hiểm - “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng mọi việc của ta”. Vì vậy, cần phải nghiêm trị các hành vi tham nhũng. Bởi theo quan điểm của Người, “chống tham nhũng là cách mạng” và tiến hành cách mạng là tiêu diệt cái xấu. Vì thế, muốn chống tham nhũng, phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân với tất cả các biện pháp, trong đó “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Học tập, quán triệt và vận dụng thực hiện theo ánh sáng tư tưởng của Người, trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã xác định quan điểm, chủ trương và đề ra những giải pháp căn bản, có tính chiến lược về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phù hợp với thực tiễn. Muốn cuộc đấu tranh này có hiệu quả, phải sử dụng giải pháp đồng bộ cả về nhận thức tư tưởng và tổ chức, luật pháp và chính sách, các giải pháp vừa có tính chiến đấu cao, vừa khoa học, kiên quyết và mạnh mẽ. Đặc biệt, phải xây dựng thiết chế pháp lý hữu hiệu để kiểm soát quyền lực - “thanh bảo kiếm nhiệm màu” trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tham nhũng là một hiện tượng tồn tại tất yếu khách quan trong xã hội có phân chia giai cấp, có Nhà nước. Bởi tham nhũng luôn luôn gắn với quyền lực Nhà nước; một số người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy Nhà nước đã lợi dụng quyền lực Nhà nước để tham nhũng, nhằm thu về những lợi ích cho bản thân mình, cho gia đình hoặc cho người thân mình. Kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong các nhiệm kỳ Đại hội gần đây cho thấy rõ hơn những nhìn nhận, đánh giá trên đây. Chỉ tính riêng trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã có hơn 87.000 đảng viên bị kỷ luật, trong đó số đảng viên sai phạm có liên quan tới tham nhũng chiếm tỷ lệ khá lớn: 14% đảng viên thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý; 6,76% đảng viên vi phạm về đạo đức, lối sống; 8,54% đảng viên vi phạm pháp luật về đất đai, tài nguyên, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản…

Trong số hơn 110 cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý bị kỷ luật ở nhiệm kỳ này có 48% vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; 40% thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý; 14,5% vi phạm về công tác tổ chức cán bộ; 27% vi phạm các quy định pháp luật về đất đai, tài nguyên, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản; 5,4% vi phạm quy định về trách nhiệm nêu gương… Trong đó, số đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng là hơn 3.200 người, chiếm 3,7%.

Đảng ta nhìn nhận, tham nhũng là một hiện tượng xấu cho xã hội, nó gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế của đất nước. Tham nhũng làm suy thoái đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước. Tham nhũng còn làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, thậm chí làm mục ruỗng bộ máy Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của đất nước, của chế độ. Tham nhũng gây mất niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Đảng ta khẳng định, tham nhũng là “quốc nạn”, là “giặc nội xâm” và lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thực tế cho thấy tham nhũng và tiêu cực có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ với nhau. Tiêu cực và tham nhũng luôn “gắn”, “dính” với nhau. Tham nhũng là “bộ phận đặc biệt của tiêu cực”. Tiêu cực dung dưỡng cho tham nhũng và tham nhũng làm trầm trọng hơn những vấn đề tiêu cực. Trong khi đó, tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Nguyên nhân dẫn đến tham nhũng có nhiều nhưng nguyên nhân cơ bản, trực tiếp là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Do vậy, công tác phòng, chống tham nhũng phải gắn liền, đồng bộ với công tác phòng, chống tiêu cực, nhất là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa”.

Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Quan điểm, chủ trương của Đảng trong Đại hội XIII đã có những bước phát triển mới về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt nhấn mạnh tới kiểm soát quyền lực, gắn trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu, tổ chức Đảng và những vấn đề đảng viên không được làm… Cùng với đó là thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Thực hiện chặt chẽ có hiệu quả, hiệu lực, thực chất về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ giữ cương vị lãnh đạo các cấp.

Phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, cần có biện pháp phù hợp đối với từng nội dung “xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhất là đề ra những giải pháp có tính đột phá; thiết chế hữu hiệu kiểm soát quyền lực để chống tham nhũng, tiêu cực trong nhiệm kỳ Đại hội XIII. Việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở thành nội dung quan trọng trong 3 Hội nghị lần thứ tư của 3 khóa Ban chấp hành Trung ương liên tiếp (từ khóa XI đến khóa XIII). Tính cấp thiết và sự quan trọng được đề cập cho thấy sự kiên trì và cũng là quyết tâm của Đảng ta trong việc làm trong sạch, nâng cao sức chiến đấu, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ.

Giải pháp đột phá phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Đảng ta nhận thấy, quyền lực luôn có nguy cơ bị “tha hóa”, “tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực”; ở đâu có quyền lực thì ở đó tồn tại nguy cơ lạm dụng quyền lực. Nếu quyền hạn không đi đôi với trách nhiệm thì sẽ dễ dẫn đến tham nhũng, tiêu cực. “Bản chất của tham nhũng, tiêu cực là lợi dụng quyền lực. Kiểm soát tốt quyền lực chính là ngăn chặn được tham nhũng và tiêu cực” - đó là khẳng định của Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc khi trình bày Nghị quyết 27-NQ/TW (ngày 9-11-2022) về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII (diễn ra ngày 5 và 6-12-2022).

Nghị quyết 27 yêu cầu nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực để ngăn chặn hiệu quả tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Đây là lần đầu tiên Trung ương đề ra những giải pháp kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng có nhiều chỉ đạo liên quan đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo nguyên tắc: “Mọi quyền lực đều được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu, trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý”.

Ngày 8-6-2023, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái một lần nữa nhắc lại quan điểm xuyên suốt, nhất quán của người đứng đầu Đảng ta là “phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn, “phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế”. Giải pháp cốt lõi để kiểm soát quyền lực? Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, trong tổng kết 10 năm thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đã đưa ra 8 bài học kinh nghiệm, trong đó có một bài học kinh nghiệm rất quan trọng là muốn phòng, chống tham nhũng hiệu quả phải kiểm soát được quyền lực; kiểm soát quyền lực giúp loại bỏ kịp thời những sai phạm, phát hiện và ngăn ngừa, xử lý nghiêm các sai phạm. Việc này có ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng.

Phân tích nguyên nhân sâu xa của tha hóa quyền lực là chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cá nhân dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - một nguyên nhân dẫn đến tham nhũng - Phó Thủ tướng khẳng định phải kiểm soát quyền lực. Thực tiễn phòng, chống tham nhũng những năm qua cho thấy phải kiểm soát quyền lực cho được đối với những cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Đề cập đến giải pháp, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho rằng phải hoàn thiện cơ chế để thực thi quyền lực Nhà nước, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, truy tố, điều tra, xét xử - những cơ quan thực thi pháp luật liên quan đến phòng, chống tham nhũng. Một giải pháp khác được Phó Thủ tướng nêu ra là phải kết hợp chặt chẽ giữa các cơ chế kiểm soát của Đảng, Nhà nước và nhân dân, phát huy vai trò của Mặt trận, các tổ chức đoàn thể, báo chí, đặc biệt là phát huy vai trò của nhân dân trong việc tiếp cận thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, cũng như phản ánh, kiến nghị của nhân dân theo quy định. Làm được như vậy, công tác phòng, chống tham nhũng sẽ được thực hiện tốt hơn.

Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế

Nhìn lại để thấy, kết quả phát hiện, xử lý nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng, đa số những cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, bị đưa ra xét xử trước pháp luật thời gian vừa qua không ít trường hợp lợi dụng quyền lực được giao để tham nhũng, tiêu cực. Tình trạng lợi dụng, lạm dụng quyền lực ở mức đáng báo động, trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước.

Từ thực tế này, Trung ương đặt ra vấn đề cần thiết phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền lực phải được thực hành đúng - một trong những giải pháp hữu hiệu, quan trọng nhất và mang tính bản chất trong tổ chức thực thi quyền lực Nhà nước, để quyền lực không bị tha hóa và để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Văn, Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra (Thanh tra Chính phủ) nhận định, kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là việc sử dụng cơ chế, thiết chế, phương thức, biện pháp để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi lạm dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực.

Theo đó, mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền hạn phải được ràng buộc chặt chẽ với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn; phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực. Phải hoàn thiện cơ chế để kiểm soát quyền lực trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng, tiêu cực cao. Kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải phù hợp với đặc điểm thể chế chính trị của nước ta, tuân thủ đúng các nguyên tắc về tổ chức, hoạt động của Đảng, Nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội để kiểm soát quyền lực; tiến hành kiểm soát bên trong và kiểm soát từ bên ngoài đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức vụ, quyền hạn.

Những năm gần đây, kiểm soát quyền lực của Đảng đã tỏ rõ hiệu lực, hiệu quả và sức chiến đấu của Đảng, nhất là trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hàng loạt các quy định của Đảng về vấn đề này được sửa đổi, bổ sung, thể hiện rõ quyết tâm chấn chỉnh kỷ luật Đảng “không có ngoại lệ”, “không có vùng cấm” như: Quy định số

205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Ban Chấp hành Trung ương ban hành các Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, về thi hành Điều lệ Đảng, về những điều đảng viên không được làm, về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...

Các quy định này cũng bổ sung về việc xử lý kỷ luật đối với cả tổ chức đảng đã hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể hoặc thay đổi do chia tách, sát nhập về mặt tổ chức; đảng viên đã chuyển công tác, nghỉ việc, nghỉ hưu; hạn chế “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”… Đặc biệt là bổ sung nguyên tắc: “Phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý, kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe và giáo dục”.

Điều này có nghĩa kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm tìm ra sai phạm, xử lý mà còn phải ngăn ngừa từ sớm những mầm mống, loại trừ nguy cơ. Khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “trông chờ, nghe ngóng”, “nhẹ trên, nặng dưới” trong kiểm tra, xử lý sai phạm, uốn nắn những khuyết điểm từ lúc manh nha. Kiểm soát quyền lực với tinh thần quyết tâm “không dừng, không nghỉ”, “không chùng xuống”, qua đó tiếp tục chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương của Đảng, góp phần phòng ngừa, xử lý tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc kiểm soát quyền lực của cả hệ thống chính trị.

Luật sư Nguyễn Đình Hưng (nguyên Kiểm sát viên cao cấp, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao): Thiết chế pháp lý là xương sống để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

“Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà Đảng, Nhà nước ta đang triển khai là rất đúng đắn và đáp ứng được mong mỏi của nhân dân. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt với phương châm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” từ Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được những kết quả rất tích cực. Tuy nhiên, cùng với việc chống tham nhũng thì chúng ta cần phải xem xét, nhanh chóng xây dựng, củng cố được cơ chế chính sách, pháp luật một cách rất cụ thể để bảo đảm triệt tiêu tiêu cực. Đồng thời cũng phải đáp ứng được các yêu cầu và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội cụ thể. Bởi khuynh hướng xã hội hiện nay của nước ta là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, phát triển đi theo xu thế của thế giới và biến thiên rất nhanh. Cần kịp thời xây dựng, bồi dưỡng cho lớp cán bộ một tầm kiến thức, suy nghĩ sâu rộng để công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt được hiệu quả cao hơn nữa.

Tôi cho rằng, nếu chúng ta chỉ tập trung vào chống mà không xây dựng được hệ thống pháp luật, chế định để uốn nắn xã hội phát triển và chưa tập trung thỏa đáng cho việc xây dựng ấy thì công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực khó lòng đạt được kết quả như kỳ vọng. Nói một cách hình ảnh là trong xây dựng thì luôn cần phải có bản vẽ thiết kế, còn trong xã hội thì luôn cần phải có các chế định, bộ luật để thúc đẩy. Chế định, pháp luật chính là xương sống để phát triển xã hội. Do đó, bên cạnh chủ trương, chính sách quyết liệt và biện pháp pháp luật để chống, để phát hiện, xử lý nghiêm khắc tham nhũng, tiêu cực thì cần kịp thời đưa ra ngay một hệ quy phạm pháp luật về định hướng phát triển và phải không ngừng giáo dục, bồi dưỡng cho các thế hệ cán bộ lãnh đạo, công chức trong bộ máy Nhà nước.

Chúng ta đều rất ủng hộ công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Bởi mầm mống và hậu quả của nó rất ghê gớm. Tham nhũng là sâu mọt, đục rỗng từ trong ra ngoài. Nhưng bên cạnh đó thì cũng cần phải có những chủ trương chính sách mang tính “gia cố” để thúc đẩy xã hội phát triển. Nói gọn lại là chúng ta đang rất cần những thiết chế pháp lý để làm xương sống, khuynh hướng cho xã hội phát triển. Bởi hiện nay, chúng ta đang thiếu và đang không có được các thiết chế để thúc đẩy xã hội phát triển. Thiết chế pháp lý, thiết chế điều hành, quản lý xã hội sẽ là công cụ bổ trợ rất đắc lực cho chủ trương phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay”.

Xét xử kịp thời, công bằng, nghiêm minh nhiều vụ án tham nhũng lớn

* Thực hiện nghiêm lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”

* Tuân thủ nguyên tắc hàng đầu là “Thượng tôn pháp luật”

* Đảm bảo Hiến định “phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực”

Trả lời phỏng vấn An ninh Thủ đô, Chánh án Tòa án nhân dân TP Hà Nội Nguyễn Hữu Chính khẳng định: Tham nhũng là một hiện tượng không phải tồn tại riêng ở một quốc gia nào, mà đó là một hiện tượng xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Hậu quả của tham nhũng vô cùng nặng nề, không chỉ là những thiệt hại vật chất với hàng chục, hàng trăm tỷ đồng mà còn làm tha hóa một bộ phận cán bộ, công chức của bộ máy Nhà nước, suy giảm niềm tin của người dân đối với bộ máy Nhà nước, gây nên sự bất bình của nhân dân đối với chế độ và nguy hiểm hơn cả là làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước.

Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh

- Phóng viên: Đảng và Nhà nước ta vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh và còn quyết liệt hơn trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; trong đó có yêu cầu phải kịp thời đưa ra xét xử nghiêm minh các vụ án tham nhũng. Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân TP Hà Nội nhìn nhận thế nào về công tác xét xử án tham nhũng trong thời gian vừa qua?

- Chánh án Tòa án nhân dân TP Hà Nội Nguyễn Hữu Chính: Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Chính phủ và tinh thần đoàn kết, nỗ lực vượt khó, đổi mới, sáng tạo của toàn dân, kinh tế - xã hội của nước ta đã thu được những kết quả đáng khích lệ, an ninh - quốc phòng được giữ vững. Đặc biệt, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt và bài bản của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã thu được những kết quả hết sức tích cực, nhiều vụ án tham nhũng lớn được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử kịp thời, nghiêm minh, thể hiện quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước, tạo sự lan tỏa tích cực trong xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình và ủng hộ.

Là cơ quan xét xử trên địa bàn Thủ đô, trong những năm qua, số lượng các vụ án mà Tòa án nhân dân TP Hà Nội thụ lý giải quyết ngày càng tăng. Trong đó có nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp, liên quan đến tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm an ninh quốc gia và đặc biệt là các vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực quan tâm theo dõi. Trước đây, điển hình là: Vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm xảy ra tại Ngân hàng Á Châu (ACB); vụ án Hà Văn Thắm và đồng phạm xảy ra tại Ngân hàng Đại Dương (Oceanbank); vụ án Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng và đồng phạm xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC); vụ án Nguyễn Bắc Son và đồng phạm xảy ra tại Tổng Công ty Viễn thông MobiFone; vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm xảy ra tại dự án Ethanol Phú Thọ; vụ án xảy ra tại Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO); vụ án Vũ Huy Hoàng và đồng phạm xảy ra tại Bộ Công Thương và Công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)...

Năm 2022, có nhiều vụ án hình sự trọng điểm; đặc biệt là các vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi đã được Tòa án nhân dân thành phố phối hợp tốt với các cơ quan tố tụng tại Trung ương và thành phố khẩn trương nghiên cứu hồ sơ và đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đáp ứng yêu cầu chính trị của địa phương, được dư luận đồng tình ủng hộ.

Điển hình như vụ án Nguyễn Quốc Anh (cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai) và đồng phạm bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai; vụ án Trương Quốc Cường (cựu Thứ trưởng Bộ Y tế) và đồng phạm bị truy tố về các tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh” xảy ra tại Cục Quản lý Dược - Bộ Y tế và một số tỉnh, thành phố; vụ án Cao Minh Quang (cựu Thứ trưởng Bộ Y tế) và đồng phạm bị truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Công ty Dược phẩm Cửu Long và các đơn vị liên quan; vụ án Trần Văn Nam (cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương) và các bị cáo khác bị truy tố về các tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Bình Dương... Ngày 11-7-2023, Tòa án nhân dân TP Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm 54 bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố trong vụ án “Chuyến bay giải cứu” về các tội: “Đưa hối lộ”, “Nhận hối lộ”, “Môi giới hối lộ”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Trong quá trình thụ lý giải quyết các vụ án này, Tòa án nhân dân TP Hà Nội luôn thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Trung ương và thành phố, thực hiện đúng quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Các vụ án đều được khẩn trương nghiên cứu hồ sơ và đưa ra xét xử kịp thời. Phán quyết của Tòa án được lập luận đanh thép, chặt chẽ, sắc bén, hình phạt áp dụng nghiêm khắc đối với kẻ chủ mưu, cầm đầu và khoan hồng, giảm nhẹ đối với những bị cáo có vai trò thứ yếu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường thiệt hại và khắc phục số tiền chiếm hưởng, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, được dư luận trong nước, quốc tế đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao; đáp ứng được yêu cầu và sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước, nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay.

Bên cạnh đó, phán quyết của Hội đồng xét xử được đưa ra không chỉ bó hẹp trong phạm vi cáo trạng truy tố mà còn kiến nghị một số nội dung, trong đó có nội dung kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật của một số tổ chức, cá nhân. Và sau đó là cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố hàng loạt vụ án, bị can cũng liên quan đến tham nhũng.

Chủ thể của tội tham nhũng rất đa dạng, hành vi phạm tội tinh vi

- Từ thực tiễn xét xử các vụ án tham nhũng, đồng chí Chánh án có thể đưa ra một số khái quát về những đặc điểm, đặc trưng cơ bản, điển hình của loại tội phạm tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay?

- Thứ nhất, trong giai đoạn hiện nay, tội phạm về tham nhũng ở nước ta thường có những đặc điểm, đặc trưng cơ bản là chủ thể của tội tham nhũng rất đa dạng, xảy ra ở cả những người nắm giữ vị trí trọng trách ở Trung ương đến các cán bộ cơ sở tại địa phương; diễn ra ở cả các cơ quan hành chính Nhà nước lẫn các doanh nghiệp, Tổng công ty có vốn Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, quản lý đất đai, đầu tư công…

- Thứ hai, hành vi phạm tội của các bị cáo thường mang tính chất tinh vi, phạm tội do thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức nên bị tha hóa, biến chất.

- Thứ ba, bên cạnh các vụ “đại án” mà hậu quả của tội phạm gây thiệt hại đặc biệt lớn cho ngân sách Nhà nước, có vụ số tiền chiếm hưởng của các bị cáo lên đến hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng thì có cả các vụ án “tham nhũng vặt”. Số tiền chiếm hưởng của các bị cáo trong các vụ án này tuy không lớn nhưng vẫn gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước và làm tha hóa, biến chất các cán bộ Nhà nước.

Việc nghiên cứu, tìm hiểu đặc trưng, đặc điểm cơ bản và bản chất của tham nhũng sẽ là cơ sở quan trọng để đưa ra các giải pháp phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Kế hoạch tỉ mỉ, dự báo các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa

- Thông thường ở các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các “đại án” tham nhũng thì số lượng bị cáo, người liên quan rất đông; khối lượng tài liệu, hồ sơ, bút lục là vô cùng lớn. Đồng chí Chánh án có thể cho biết, Hội đồng xét xử đã làm thế nào để nghiên cứu, bao quát một cách đầy đủ, cẩn trọng và toàn diện vụ án?

- Trong thời gian qua, trong số các vụ án tham nhũng mà Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã đưa ra xét xử luôn có những vụ hồ sơ lên đến hàng chục nghìn, trăm nghìn bút lục. Để có thể giải quyết tốt các vụ án này thì việc tổ chức nghiên cứu hồ sơ khoa học, hiệu quả là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng. Quá trình giải quyết các vụ án này, Tòa án nhân dân TP Hà Nội đều lựa chọn những Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm xét xử và bản lĩnh chính trị vững vàng; nhận thức đầy đủ về ý nghĩa chính trị, tầm quan trọng của việc giải quyết vụ án, trách nhiệm của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi được phân công giải quyết vụ án. Tiếp đến là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được phân công phải chủ động tiếp cận, đánh giá các chứng cứ buộc tội, gỡ tội ngay từ khi khởi tố điều tra, truy tố, kịp thời yêu cầu thu thập bổ sung những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án, đảm bảo nguyên tắc Hiến định “phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực”. Điều này rất cần thiết đối với việc giải quyết các vụ án tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp.

Khi thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án nhân dân TP Hà Nội đều thành lập tổ công tác bao gồm một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký có kinh nghiệm để tổ chức nghiên cứu hồ sơ. Việc nghiên cứu được tiến hành theo từng hành vi mà cáo trạng truy tố như tội danh, diện truy tố, chứng cứ buộc tội, gỡ tội... Đồng thời, phải lên kế hoạch xét xử tỉ mỉ và đặc biệt phải tiên lượng, dự báo được các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa như: buộc phải hoãn phiên tòa vì bị cáo ốm, luật sư vắng mặt hoặc bị cáo, luật sư đưa ra tài liệu, chứng cứ mới, thiếu người tham gia tố tụng... để có phương án xử lý phù hợp. Chính nhờ công tác nghiên cứu hồ sơ được tổ chức một cách bài bản, khoa học đã giúp Hội đồng xét xử nắm vững hồ sơ, chủ động trong việc điều hành phiên tòa, cũng như giải quyết các tình huống tại phiên tòa, góp phần quan trọng cho sự thành công của phiên tòa.

Xét xử công bằng, công tâm, không kết án oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm

- Một trong những đặc điểm cơ bản nổi bật ở vụ án tham nhũng là các bị cáo thường có trình độ cao, thậm chí có bị cáo còn từng là đồng chí hoặc từng có quan hệ công tác với tòa án. Vì thế, để các bị cáo tham nhũng phải “tâm phục khẩu phục” và “công tư phân mình” thì điều gì là quan trọng nhất?

- Thực tế cho thấy, trong các vụ án tham nhũng lớn, đa phần các bị cáo đều có trình độ học vấn cao, kinh nghiệm quản lý lâu năm, có những mối quan hệ xã hội. Thậm chí có cả những bị cáo nguyên là cán bộ cấp cao trong bộ máy Nhà nước. Để xét xử thành công các vụ án này thì công tác chính trị tư tưởng đối với các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, Tòa án nhân dân TP Hà Nội thường xuyên quán triệt đến toàn thể cán bộ, công chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị về việc phải không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp; thực hiện nghiêm túc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”. Trong quá trình làm việc, khi nghiên cứu, giải quyết vụ án, phải luôn tuân thủ nguyên tắc hàng đầu là “Thượng tôn pháp luật”, việc xét xử phải đảm bảo tính công bằng, công tâm, luôn bảo vệ quyền lợi chính đáng của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân, không kết án oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

Chính nhờ làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, trong các phiên tòa do Tòa án nhân dân TP Hà Nội xét xử trong thời gian vừa qua, Hội đồng xét xử đều điều hành phiên tòa một cách công minh, khách quan; Hội đồng xét xử bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, không hạn chế thời gian tranh tụng, Kiểm sát viên thực hiện đối đáp đến cùng, tạo sự dân chủ, công khai khách quan, giúp bảo đảm quyền con người. Qua quá trình tranh tụng công khai đã giúp các bị cáo nhận thức và hiểu rõ hành vi phạm tội của mình, nhiều bị cáo đã chuyển từ thái độ chống đối, chối tội sang “tâm phục khẩu phục”, thừa nhận hành vi phạm tội của mình, xin lỗi Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Đơn cử như trong một số vụ án, tại phiên tòa, lúc đầu bị cáo chối tội, không thừa nhận hành vi nhận hối lộ nhưng qua quá trình tranh tụng công khai, qua việc điều hành phiên tòa kiên trì, mềm dẻo, cho đối chất, công bố lời khai của các bị cáo khác… thì bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội và số tiền nhận hối lộ. Tại lời nói sau cùng, có bị cáo đã nói lời xin lỗi đồng chí Tổng Bí thư, xin lỗi Đảng, Nhà nước và nhân dân và động viên người nhà khắc phục toàn bộ số tiền mà bị cáo đã chiếm hưởng từ việc nhận hối lộ. Có vụ án tham nhũng đã thu hồi được toàn bộ số tiền Nhà nước bị thiệt hại và số tiền chiếm hưởng của các bị cáo thông qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Trong thời gian qua, nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được xét xử tại Tòa án nhân dân TP Hà Nội, tại phần trình bày lời nói sau cùng, đa phần các bị cáo đã gửi lời xin lỗi đến Đảng, Nhà nước về hành vi của mình và cảm ơn Hội đồng xét xử vì đã tạo điều kiện cho bị cáo được trình bày, bị cáo được cảm nhận về một phiên tòa khách quan, công tâm. Đây là những tín hiệu đáng mừng, thể hiện tính đúng đắn của chiến lược cải cách tư pháp mà nước ta đã thực hiện trong những năm vừa qua.

Củng cố, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan tố tụng

- Hiện nay, hàng loạt vụ án tham nhũng lớn đang trong giai đoạn điều tra, chuẩn bị được đưa ra xét xử hoặc đang xét xử, xin đồng chí Chánh án cho biết, Tòa án nhân dân TP Hà Nội sẽ tiếp nhận nhiệm vụ này với tinh thần như thế nào?

- Tòa án nhân dân TP Hà Nội đang tiếp tục được giao xét xử thêm nhiều vụ án tham nhũng lớn. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là trọng trách rất lớn. Để có thể hoàn thành tốt việc xét xử các vụ án này, Tòa án nhân dân TP Hà Nội sẽ phải tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm. Đó là thường xuyên bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Ban Nội chính Trung ương, Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân Tối cao, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân TP Hà Nội và vận dụng phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thứ hai là tiếp tục phát huy những điểm đạt được, kinh nghiệm đã tích lũy được, khắc phục những điểm còn tồn tại, hạn chế rút ra quá trình tổ chức xét xử thành công nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm theo dõi trong thời gian vừa qua. Kế đến là không ngừng củng cố, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa Tòa án nhân dân TP Hà Nội với các cơ quan tố tụng ở Trung ương và thành phố, cũng như với các sở, ban, ngành thành phố trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Sau nữa là tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, thường xuyên quán triệt đến các Thẩm phán, cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị không ngừng học hỏi, nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cũng như đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, sẵn sàng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Và sau cùng là tiếp tục đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.

PGS.TS Nguyễn Cảnh Quý (Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh): Xây dựng cơ quan, đơn vị chuyên trách phòng, chống tham nhũng, tiêu cực độc lập

“Tham nhũng là một hiện tượng tồn tại tất yếu khách quan luôn luôn gắn với quyền lực Nhà nước. Nó gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, làm suy thoái cán bộ, làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động kém hiệu lực, thậm chí mục ruỗng, đe dọa sự tồn vong của đất nước, chế độ. Tham nhũng còn gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, phải coi đây chính là “quốc nạn”, là “giặc nội xâm” để kiên quyết chống đến cùng” - PGS.TS Nguyễn Cảnh Quý, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định.

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước

PGS.TS. Nguyễn Cảnh Quý phân tích, để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả thì kiểm soát quyền lực Nhà nước là một trong những biện pháp quan trọng bậc nhất.

- Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về nguy cơ tham nhũng, quan liêu từ sự tha hóa quyền lực Nhà nước và vai trò kiểm soát quyền lực Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

- Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước nhằm phát huy cơ chế này trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay. Trong đó, Đảng và Nhà nước cần tập trung vào hoàn thiện cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Thứ ba, hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực Nhà nước giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bởi nếu quyền lực Nhà nước được kiểm soát thì sẽ hạn chế được tham nhũng, tiêu cực.

Nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan chống tham nhũng thích hợp

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là đấu tranh phòng, chống những hành vi tiêu cực, trái pháp luật của những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy Nhà nước. Vì vậy, đây là cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp. Muốn đấu tranh có hiệu quả, cần nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan chống tham nhũng thích hợp. PGS.TS. Nguyễn Cảnh Quý cho rằng, cần thành lập một cơ quan phòng, chống tham nhũng chuyên trách trực thuộc Tổng Bí thư hoặc Chủ tịch nước.

Ban hành cơ chế, tổ chức hoạt động để cơ quan này có quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát vụ việc có dấu hiệu tham nhũng đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, các cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước và hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương. Có như vậy mới xử lý kịp thời, trên diện rộng hành vi tham nhũng, hạn chế sự bao che, tẩu tán tài sản hoặc trốn ra nước ngoài của những người tham nhũng.

Những người làm việc trong các cơ quan này phải có trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ sâu trong nhiều lĩnh vực, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thách thức và nguy hiểm trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật riêng để cơ quan này thực hiện chức năng nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhanh chóng kịp thời, có hiệu quả.