- NCB – Prévoir hợp tác mang đến sản phẩm tài chính – bảo hiểm tiện ích cho khách hàng
- Khó có "cuộc đua" giảm lãi suất cho vay giữa các ngân hàng
- Fintech "mỏ vàng" tài chính thời Internet
Kéo dài vài năm
Thông tin từ phía nhiều ngân hàng thương mại cho biết, việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ là điều không hề đơn giản. Có những bản án có hiệu lực từ cách đây nhiều năm nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện xong, có những tài sản đã bán đấu giá thành công từ vài năm trước nhưng đến nay cũng chưa thể sang được tên cho người trúng đấu giá... hay có cả trường hợp khách hàng tự nguyện chuyển giao tài sản nhưng sau đó tìm đủ cách để gây khó dễ. Đây cũng là một phần nguyên nhân khiến việc xử lý nợ xấu thời gian qua chưa đạt được hiệu quả.
Chia sẻ về những vướng mắc thường xuyên gặp phải, ông Thiệu Ánh Dương, Tổng giám đốc Công ty Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và Khai thác Tài sản - Ngân hàng TMCP Kỹ thương (Techcombank AMC) cho hay: “Thực tế cho thấy, một vụ việc từ khi khởi kiện đến khi thi hành án xong sẽ kéo dài nhiều năm vì hệ thống tòa án, thi hành án ở Việt Nam đang bị quá tải về nguồn lực, thời gian, thủ tục. Đa số các khoản nợ để thu hồi được bằng con đường tòa án và thi hành án thường kéo dài trên 2 năm và không mang lại hiệu ứng tốt. Có nhiều vụ án, ngân hàng đã theo kiện từ những năm 2012, 2013, 2014, qua hết các phiên sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí đã có Quyết định giám đốc thẩm… nhưng đến nay vụ kiện vẫn chưa kết thúc. Có trường hợp đã đấu giá xong tài sản đảm bảo nhưng do không nhận được sự hợp tác từ bên bảo đảm, chính quyền địa phương… nên đến nay tài sản này vẫn chưa được sang tên cho bên trúng đấu giá, ảnh hưởng tới hạch toán của các ngân hàng”.
Do tính phức tạp và kéo dài của thủ tục khởi kiện và thi hành án nên nhiều khách hàng vì muốn trì hoãn việc trả nợ đã vận dụng thủ tục này để yêu cầu Ngân hàng phải giải quyết tranh chấp thông qua tòa án mặc dù Nghị định 163/NĐ-CP 2006 về quyền xử lý tài sản bảo đảm đã cho phép tổ chức tín dụng có thể chủ động xử lý tài sản đảm bảo hoặc khởi kiện.
Làm rõ hơn về vấn đề này, ông Hà Sỹ Vịnh, Phó Giám đốc Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) chỉ ra rằng: “Việc xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng thường gặp các vướng mắc trong việc thu giữ tài sản đảm bảo, xác định giá bán. Ngân hàng không thu giữ được tài sản đảm bảo do khách hàng, bên bảo đảm không hợp tác. Họ lập luận theo góc độ pháp luật để trì hoãn việc xử lý tài sản đảm bảo. Muốn xử lý những vướng mắc này, tổ chức tín dụng buộc phải khởi kiện. Theo con đường tố tụng, thi hành án, làm tốn kém về thời gian, chi phí cho tổ chức tín dụng, ảnh hưởng tới tiến độ xử lý nợ của ngân hàng”.
Thậm chí, có những trường hợp doanh nghiệp chấp thuận ký các biên bản bàn giao tài sản, ngân hàng đã đăng ký sang tên và được cơ quan chức năng chấp thuận nhưng sau đó khách hàng vẫn gây trở ngại. Ông Nguyễn Thành Long - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) cho hay, quá trình xử lý tài sản bảo đảm của các NHTM thực sự gặp rất nhiều khó khăn bởi sự không hợp tác của khách hàng.
“Có trường hợp, chúng tôi mất rất nhiều năm không thu được một đồng nợ lãi và gốc nào, ngay cả khi phải đưa ra tòa, có bản án của tòa và có biên bản bàn giao nhưng công ty vẫn vi phạm thỏa thuận, đi ngược phán quyết của tòa. Thậm chí sau khi có công văn của Tòa án nhân dân cấp cao khẳng định không có cơ sở xem xét lại vụ việc, trên cơ sở đó ngân hàng đã được sang tên tài sản thì công ty vẫn tiếp tục kiện cáo và xuyên tạc sự việc, gây cản trở quá trình xử lý nợ xấu”.
Bên vay hay bên cho vay yếu thế hơn?
PGS.TS Nguyễn Kim Anh - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong những năm qua, hệ thống ngân hàng đã nỗ lực triển khai đồng bộ các giải pháp để xử lý nợ xấu, thu hồi nợ vay, khơi thông nguồn vốn tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn vốn. Tính đến thời điểm 31-12-2015, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 493,09 nghìn tỷ đồng nợ.
Nợ xấu do các tổ chức tín dụng tự xử lý chiếm 55,4%, còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 44,6%. Trong đó, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là giải pháp quan trọng nhất để đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu vì hơn 90% khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên, biện pháp xử lý tài sản bảo đảm (bán, phát mại) thu hồi nợ chưa được thực hiện hiệu quả (chỉ đạt khoảng 13,91 nghìn tỷ đồng). Số liệu này cho thấy việc xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Theo TS. Vũ Đình Ánh - chuyên gia kinh tế, bản chất kinh tế của quyền xử lý tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại là quyền đối với tài sản bảo đảm nhằm bù đắp thiệt hại do nợ xấu gây ra. Nhưng khi các tổ chức tín dụng xử lý tài sản bảo đảm thì quan hệ với người đi vay không những thiếu đi sự hợp tác cần thiết, mà có khi còn chuyển sang đối đầu, thậm chí mâu thuẫn xung đột gay gắt…
Tâm lý phổ biến trong xã hội cũng như ngay cả trong cơ quan chức năng là quyền xử lý tài sản bảo đảm là quyền đặc hữu của các đơn vị, thậm chí là phục vụ lợi ích nhóm của giới tài chính ngân hàng bất chấp quyền và lợi ích của người đi vay.
Tuy nhiên, nếu quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng được thực thi có hiệu lực và hiệu quả thì không chỉ bảo vệ lợi ích của người cho vay mà còn cả của người đi vay và cao hơn nữa là bảo vệ lợi ích của nền kinh tế.
Trong khi đó, luật sư Trương Thanh Đức - Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico đánh giá, nợ xấu là kết quả của nền kinh tế, chủ yếu do nguyên nhân các doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, không có khả năng trả nợ, mà hầu hết, ngân hàng là nạn nhân chứ không phải là thủ phạm.
Nếu để tình trạng nợ xấu kéo dài hoặc chỉ xử lý về hình thức con số trên sổ sách thì môi trường kinh doanh sẽ còn tiếp tục khó khăn, bất ổn, lãi suất sẽ vẫn cao, hiệu quả sẽ rất kém, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế.
Dưới góc độ pháp luật về quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng, luật sư Nguyễn Thị Phương - Phó Chủ nhiệm CLB Pháp chế Ngân hàng Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng là một loại quyền dân sự.
Do đó, các tổ chức tín dụng được thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm theo ý chí của mình với điều kiện tiên quyết là không trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không được lạm dụng quyền gây thiệt hại cho người khác, không vượt quá giới hạn việc thực hiện quyền đó…
Nhiều ý kiến từ phía chuyên gia và ngân hàng thương mại cho rằng, Bộ Luật Dân sự năm 2015 sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2017, nhưng đến nay chưa có quy định cụ thể về việc thu giữ tài sản bảo đảm.
Vì vậy, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để nghiên cứu, bổ sung hướng dẫn chi tiết về quyền của bên nhận bảo đảm đối với việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Từ những thực tế đang diễn ra, quan điểm xây dựng và thực thi pháp luật hiện nay cần phải được thay đổi.
Đó là phải ưu tiên trước hết bảo vệ quyền lợi của chủ nợ thay vì con nợ, tức bảo vệ quyền sở hữu trọn vẹn là đồng tiền cho vay, thay vì bảo vệ quyền sở hữu hạn chế là đồng tiền đi vay hay tài sản đã đưa vào bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ. Điều này cần phải được cụ thể hoá trong các quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm.