Ngân hàng không muốn rơi vào cảnh “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” khi hỗ trợ doanh nghiệp

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký VNBA cho biết, các ngân hàng vẫn lo ngại mang danh “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” khi hỗ trợ doanh nghiệp.

Nhắc lại bài học từ khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009, việc hỗ trợ doanh nghiệp đã để lại hậu quả nặng nề cho ngành ngân hàng, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký VNBA cho biết, các ngân hàng vẫn lo ngại mang danh “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” khi hỗ trợ doanh nghiệp. Do đó, cần những chính sách đủ mạnh để hỗ trợ doanh nghiệp nhưng cũng không để lại những khoản nợ xấu khổng lồ cho ngân hàng.

Áp lực các ngân hàng ngày càng lớn

TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, từ khi dịch Covid-19 bùng phát đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp (DN), trong đó phải kể đến Thông tư 01 và các Thông tư 03, Thông tư 14 về cơ cấu nợ, miễn giảm lãi suất, phí cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Cùng với đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đã nỗ lực kinh doanh, tăng thu từ dịch vụ để tăng lợi nhuận… Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu… cũng đã giúp các ngân hàng đẩy nhanh xử lý nợ xấu, qua đó tăng lợi nhuận, giúp TCTD có nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp thuận lợi hơn.

Tuy nhiên, theo lãnh đạo VNBA, bản thân các TCTD cũng là DN, cũng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhưng phải dùng lợi nhuận của chính mình để chia sẻ với DN. Những khoản nợ dù đã được cơ cấu lại nhưng bản chất nền tảng vẫn là nợ xấu, chỉ khác là ngân hàng không phải trích lập dự phòng rủi ro ngay.

Nhưng Thông tư 14 vừa sửa đổi vẫn yêu cầu các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro 3 năm, với mức tối thiểu 30% trong năm nay, lại tạo thành áp lực lớn lên TCTD.

TS Nguyễn Quốc Hùng

TS Nguyễn Quốc Hùng

Về nguy cơ nợ xấu, ông Hùng cho hay, những khoản nợ nhóm 1 cũng có thể bị ảnh hưởng, bởi khó khăn của DN luôn tiềm ẩn, chuỗi cung ứng bị đứt gãy thì nguy cơ nợ xấu trong tương lại rất cao.

Ngoài ra, ngân hàng còn có những khoản lãi dự thu, là những khoản dù quyết toán rồi nhưng không thu được thì vẫn phải thoái thu. Do đó, lợi nhuận trong tương lai của các TCTD có thể sụt giảm, ảnh hưởng đáng kể đến tình hình kinh doanh.

Một vấn đề nữa theo ông Hùng là từ đầu năm đến nay, lượng tiền gửi dân cư đến TCTD giảm, nên khả năng huy động vốn cũng có chiều hướng giảm. Điều này kéo theo nguy cơ khó khăn về nguồn lực hỗ trợ DN sau dịch bệnh, dẫn tới áp lực thanh khoản có thể xảy ra trong tương lại.

Dư địa hỗ trợ không còn nhiều

TS. Nguyễn Quốc Hùng cho biết, hiện nay ngân hàng hỗ trợ DN hoàn toàn từ tiền của các ngân hàng, không có nguồn lực nào khác. Tuy nhiên, những khó khăn đang khiến dư địa hỗ trợ DN của các TCTD đã gần như cạn kiệt.

Vì thế, để các TCTD có thêm nguồn lực và điều kiện hỗ trợ DN thì chính sách phải dài hạn. Chẳng hạn, nếu như có điều kiện thì NHNN nên gộp Thông tư 01, 03 và 14 vào làm một cho thống nhất và phù hợp. Hiện 3 thông tư này cùng có hiệu lực, bản thân TCTD hạch toán theo cũng ít nhiều khó khăn.

Ngoài ra, một số nội dung vượt quyền hạn của NHNN thì nên trình lên Chính phủ, Quốc hội. “Hiện lĩnh vực nông nghiệp nông thôn có Nghị định 116 sửa đổi Nghị định 55 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, với điều khoản cơ cấu nợ, khoanh nợ và cho vay mới với khách hàng bị thiệt hại do các nguyên nhân khách quan.

Vậy tại sao không đặt vấn đề xây dựng chính sách khoanh nợ, cơ cấu nợ cho các DN bị ảnh hưởng bởi Covid-19 ở mức độ pháp lý cao hơn giúp cơ chế được mạnh mẽ và hiệu quả hơn? Bản thân cơ quan ban hành chính sách cũng phải có những bước đi thận trọng. Nhưng thận trọng, an toàn đến mức DN không tiếp cận được chính sách thì cần thay đổi”, ông Nguyễn Quốc Hùng đặt vấn đề.

Về nguồn lực để hỗ trợ DN, lãnh đạo VNBA cho biết, chính sách tiền tệ đã sử dụng hết khả năng, nên cần sự vào cuộc của chính sách tài khóa. Chính phủ có thể phát hành trái phiếu, vay từ ngân hàng trung ương như các quốc gia khác… để có đủ nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế.

Ông Hùng nhắc lại khủng hoảng suy thoái toàn cầu năm 2009, khi đó Chính phủ đã có gói hỗ trợ nền kinh tế lên tới 145.000 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp lên đến 1 tỷ USD, nhưng hậu quả để lại cho ngành ngân hàng là rất lớn.

Do đó, theo ông, chính sách phải đủ mạnh để đảm bảo quyền lợi của các ngân hàng khi tham gia hỗ trợ DN, nhưng cũng không để lại khoản nợ xấu khổng lồ trong vài năm nữa, vì các ngân hàng lại lo ngại mang danh “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

“Chính vì những lo lắng như thế nên các TCTD phải thận trọng khi cho vay vốn. Nên để tăng khả năng tiếp cận vốn cho DN, NHNN phải ban hành cơ chế, chính sách, đừng đặt doanh nghiệp là đối tượng, phải coi họ là đối tác. Hơn nữa, việc ban hành chính sách cần sự đồng hành của các bộ, ngành liên quan”, ông nói.