"Bản anh em" trên biên giới Việt - Lào

ANTĐ - 23 cặp bản Việt Nam và bản Lào kết nghĩa càng tăng thêm sự gắn kết khăng khít giữa cư dân biên giới hai nước. Quảng Trị là địa phương đi đầu thực hiện ý tưởng kết nghĩa bản - bản dân cư hai bên biên giới. Qua 5 năm, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng đã có ý tưởng nhân rộng mô hình này ra khắp các tỉnh biên giới trên 
cả nước.

Trưởng Cụm bản Ka Túp Mỹ Yên - đồng chí Tengone trao đổi về sự hợp tác 
giữa cư dân hai bên biên giới

Mô hình đột phá 

Tỉnh Quảng Trị có tuyến biên giới đất liền với với 2 tỉnh Savannakhet và Salavan (nước CH DCND Lào) có chiều dài 206 km, thuộc địa giới hành chính của 2 huyện Hướng Hóa và Đakrông (tỉnh Quảng Trị), tiếp giáp với  huyện Sê Pôn, Mường Noòng, (tỉnh Savanakhet) và huyện Sa Muồi (tỉnh Salavan). Trong khi đó, cư dân hai bên biên giới chủ yếu sống bằng nghề nông, phương thức canh tác lạc hậu, phần lớn làm nương rẫy, phát triển kinh tế gặp nhiều khó khăn, đời sống vẫn còn nhiều thiếu thốn. 

Trước đây tuyến biên giới giữa tỉnh Quảng Trị và hai tỉnh Salavan, Savannakhet cơ bản ổn định, hòa bình, hữu nghị nhưng vẫn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp, đó là hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, các hoạt động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc kích động, lôi kéo người dân gây rối an ninh trật tự. Bên cạnh đó là hoạt động của các loại tội phạm ma túy, buôn bán hàng lậu, hàng cấm, đưa đón người qua biên giới trái phép. Một bộ phận nhân dân nhận thức về quốc gia, quốc giới còn hạn chế nên việc qua lại thăm thân, xâm canh, xâm cư, kết hôn hai bên biên giới chưa tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật. Một số tệ nạn xã hội khác như rượu chè, cờ bạc, trộm cắp... làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự ở khu vực biên giới cũng như công tác quản lý, bảo vệ biên giới của hai bên.

Nhằm duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam; xuất phát từ tình hình thực tiễn khu vực biên giới, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Trị đã giao cho Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh nghiên cứu, đề xuất hình thức, biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ biên giới và tăng cường công tác đối ngoại trong tình hình mới. Theo đó, mô hình kết nghĩa bản - bản đối diện hai bên biên giới đã ra đời. 

Cư dân thêm gắn kết

Mô hình làm điểm đầu tiên được thực hiện giữa bản Ka Tăng, thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị và bản DenSaVan - huyện Sê Pôn, tỉnh Savanakhet, tiếp đến là việc kết nghĩa giữa 2 bản La Lay, xã A Ngo, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị với bản La Lay A Xói, Cụm bản II, huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan. Đến tháng 9-2010, đã tổ chức kết nghĩa toàn bộ 23/23 cặp bản đối diện hai bên biên giới giữa tỉnh Quảng Trị với 2 tỉnh Savanakhet và Salavan. 

Sau hơn 5 năm thực hiện kết nghĩa bản - bản đối diện hai bên biên giới đã mang lại hiệu quả thiết thực, tạo sự chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, góp phần củng cố, phát triển bền vững mối quan hệ đoàn kết, gắn bó đặc biệt. Từ sinh hoạt bản làng, đến giúp nhau cùng phát triển kinh tế, dựng vợ gả chồng, giao lưu văn hóa, văn nghệ được tổ chức thường xuyên giữa hai bên. 

“Ý thức trách nhiệm tham gia quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc, dấu hiệu vành đai khu vực biên giới, biển báo khu vực biên giới; bảo vệ tài nguyên, khoáng sản của người dân được nâng lên rõ rệt. Nhân dân tích cực tham gia tuần tra bảo vệ đường biên, cột mốc, cung cấp cho 586 nguồn tin, trong đó có hơn 300 nguồn tin có giá trị liên quan đến bọn tội phạm buôn bán ma túy, chất nổ, chất cháy, buôn bán phụ nữ qua biên giới, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản công dân...”, Đại tá Nguyễn Đức Khánh, Chính ủy Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng Quảng Trị cho hay.

Cũng theo lời kể của Đại tá Nguyễn Đức Khánh, các thôn bản kết nghĩa đã giúp nhau bằng nhiều việc làm hết sức cụ thể như trao đổi kinh nghiệm sản xuất, hỗ trợ các loại giống cây trồng, vật nuôi, hướng dẫn cách phòng trừ dịch bệnh, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; tạo điều kiện thông thoáng cho việc lưu thông sản phẩm trở thành hàng hóa trao đổi trên thị trường. Nhiều hộ gia đình dân bản đã có thu nhập trên 100 triệu đồng/năm. Từ năm 2005 đến nay, các bản phía Quảng Trị đã giúp các bản đối diện  hơn 50.000 giống sắn k94; 17.000 cây keo tai tượng, tràm hoa vàng, 125 kg giống ngô lai, 1.500 cây  ăn quả, hơn 500 con gia súc, gia cầm giống... Đặc biệt, vào các ngày lễ lớn, tết cổ truyền dân tộc của 2  nước, chính quyền và bà con thôn bản kết nghĩa 2 bên đều tổ chức đến thăm hỏi, chúc mừng, chung vui, tăng cường mối quan hệ đoàn kết hữu nghị anh em. Các hoạt động giao lưu văn hóa, thể dục, thể thao giữa các bản thường xuyên được tổ chức, góp phần giới thiệu, giữ gìn bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc, góp phần làm lành mạnh, phong phú thêm đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên tuyến biên giới. 

Đời sống khấm khá lên

Chúng tôi tìm đến bản Ka Túp Mỹ Yên (huyện Sê Pôn, tỉnh Savannakhet, Lào), đây là bản kết nghĩa bản - bản với Khóm Ka Túp, thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị, Việt Nam. Con sông Sê Pôn như dải biên giới giữa Việt Nam - Lào được nối giữa hai bên bằng con thuyền nhỏ. Ông Hồ Văn Hùng, trưởng Khóm Ka Túp cho hay, thuyền do người bên Khóm Ka Túp phụ trách, giúp thông thương giữa hai bên cư dân. Đáng nói, thuyền phục vụ bà con qua lại không thu tiền. “Bà con bên Ka Túp Mỹ Yên ngày nào cũng sang sông qua đây mua hàng hóa, nhu yếu phẩm sinh hoạt. Cư dân hai bên đi lại như người trong cùng bản. Chẳng mấy khi xảy ra xung đột. Cư dân hai bên có vấn đề gì đột xuất thì cùng nhau ngồi lại họp bàn, tìm cách giải quyết”. 

Thuyền qua sông Sê Pôn, đặt chân sang đất Ka Túp Mỹ Yên mà vẫn cứ ngỡ đang đứng trên đất Việt với những con người hồn hậu, thân quen. Tiếp chúng tôi, đồng chí Tengone, Trưởng cụm bản Ka Túp Mỹ Yên cho hay, Cụm bản Ka Túp Mỹ Yên có khoảng 2.400 nhân khẩu, người dân chủ yếu sống nhờ nương rẫy, trồng trọt. “Trước kia, dân trong Cụm chỉ trồng lúa, thu nhập rất thấp vì điều kiện khí hậu, đất đai lại thiếu nước tưới. Nhưng, từ năm 2009, được bà con người bên bản Ka Túp Việt giúp đỡ về giống chuối, về tiêu thụ, đời sống bà con khấm khá lên trông thấy. Đồng bào vui lắm, có việc để làm, lại có thu nhập”. 

Đưa chúng tôi đi xem trạm y tế, công trình do bộ đội biên phòng Lao Bảo xây tặng dân cư Cụm bản Ka Túp Mỹ Yên, ông Tengone luôn miệng giới thiệu: “Công trình này là của bộ đội Việt Nam xây tặng. Toàn bộ từ nguyên vật liệu đến nhân công xây dựng đều được đưa từ Việt Nam sang. Công trình sắp hoàn thiện rồi, Cụm bản chúng tôi sẽ có cơ sở y tế khang trang hơn để khám, chữa bệnh cho bà con ở đây”. Chăn Si, y tá Trạm y tế Cụm bản Ka Túp Mỹ Yên cho biết, cô được bổ sung từ huyện xuống đây đã một năm. “Bà con ở đây cũng khó khăn lắm, đời sống vất vả nên cũng không có nhiều điều kiện khám, chữa bệnh. Trạm y tế cũng được huyện đầu tư cho hai phòng cấp bốn nhỏ, chật chội lắm. Giờ sắp có trạm y tế to hơn, chúng em cũng có chỗ ăn ở tốt hơn”.

Thiếu tá Trần Tuấn Anh, Đồn trưởng Đồn biên phòng cửa khẩu Lao Bảo nhận định, mô hình kết nghĩa bản - bản phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ biên giới, lãnh thổ, an ninh trật tự khu vực biên giới. Trong khi đó, lại tăng thêm tình đoàn kết giữa dân cư biên giới hai nước Việt - Lào. Từ hiệu quả của mô hình tại Quảng Trị, vừa qua, lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo đưa mô hình này nhân rộng ra khắp các tỉnh có  biên giới trên đất liền.