Thực hiện “quyền im lặng”, nếu vội vàng có thể phát sinh thêm tội phạm

ANTĐ - Trên diễn đàn Quốc hội đã có cuộc tranh luận sôi nổi về đề xuất bị can có quyền không khai những gì bất lợi cho mình. Cơ quan điều tra khi tiếp cận người bị bắt cần thông báo cho họ quyền được im lặng. 

Trong phiên thảo luận, ngày 30,31-3, thảo luận về dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi, vấn đề “quyền im lặng” được đặt ra và nhiều đại biểu đã tham gia cho ý kiến. 

Có một số đại biểu cho rằng đưa vào Luật “quyền im lặng” của bị can là quyền nhiều nước trên thế giới đã quy định và đây là sự tiến bộ. Tuy nhiên, đề nghị đưa “quyền im lặng” vào dự thảo luật đã không nhận được sự đồng tình của nhiều đại biểu bởi nếu cho phép người bị tạm giam, tạm giữ có quyền im lặng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.

Nhiều đại biểu đã khẳng định: việc đưa “quyền im lặng” vào trong Luật Tố tụng hình sự là vô lý, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan điều tra.“Quyền im lặng” cần phải được hiểu là quyền bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc phải nhận mình có tội, chứ không có nghĩa “quyền im lặng” là “không khai báo gì”.

Việc đưa “quyền im lặng” vào trong luật cần phải được cân nhắc cẩn trọng nếu vội vàng có thể phát sinh thêm tội phạm cũng là ý kiến của nhiều luật sư khi bàn đến vấn đề này. 

Thực hiện “quyền im lặng”, nếu vội vàng có thể phát sinh thêm tội phạm ảnh 1

Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuyên

Đưa “quyền im lặng” vào luật là thừa 

Tôi nhận thấy rằng hiện tại chưa thể đưa “quyền im lặng” của người bị bắt, bị can, bị cáo vào trong Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi. Vì những lý do sau đây:

- Thứ nhất, trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi đã có những nguyên tắc cơ bản xác định việc xử lý về hình sự đối với một con người phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự. 

Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải chứng minh tội phạm bằng các “biện pháp hợp pháp” theo đúng quy định của pháp luật, không bức cung, nhục hình… để buộc người bị bắt, bị can, bị cáo phải khai nhận. Vì vậy, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có trình bày lời khai hay không không có ý nghĩa quyết định đến việc xác định sự thật của vụ án.

- Thứ hai, trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi đã quy định: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai. Vì vậy, không nên quy định thêm là có quyền trình bày lời khai hoặc từ chối trình bày lời khai. 

Vì đây là chế định về quyền, không phải chế định nghĩa vụ. Đã là quyền thì họ có thể trình bày lời khai hoặc không thực hiện việc trình bày lời khai. Về kỹ thuật lập pháp, quy định như vậy là thừa, không cần thiết. Do đó, không cần thiết quy định “quyền im lặng” của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 

Thực tế họ có thể im lặng (nếu họ muốn). Cơ quan tiến hành tố tụng không có quyền bắt họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp pháp. Và cũng xuất phát từ ý thứ nhất, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng với những biện pháp hợp pháp.

- Thứ ba, giả sử nếu quy định họ có nghĩa vụ khai báo, trình bày lời khai, nhưng họ không trung thực, không thành khẩn, họ khai báo gian dối thì thực chất cũng chẳng khác gì im lặng và trách nhiệm chứng minh tội phạm vẫn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng theo đúng các quy định của pháp luật. Vì vậy, không cần thiết phải quy định “quyền im lặng” của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Vấn đề cốt lõi để đảm bảo tốt nhất quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, chính là việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp, những người tiến hành tố tụng thật sự “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, xây dựng các quy định, các cơ chế, chính sách trong Bộ luật Tố tụng hình sự một cách chặt chẽ, thống nhất, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện một cách hiệu quả, theo đúng quy định của luật. 

Kiểm sát viên Phùng Quang Vũ
(VKS Quân sự Thủ đô Hà Nội)

Chống oan sai nhưng không được bất lực trước tội phạm

Theo tôi, đây là vấn đề quan trọng cần được xem xét kỹ lưỡng. Về nguyên tắc, thực thi “quyền im lặng” thể hiện sự tiến bộ, phù hợp với công ước về dân sự mà Việt Nam đã tham gia.

Chấp nhận “quyền im lặng”  cũng khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm là của cơ quan buộc tội, trên nguyên tắc suy đoán vô tội.

Tuy nhiên, mọi công ước, kể cả công ước về quyền dân sự cũng thừa nhận tiến độ thực hiện các quyền dân sự phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Điều kiện xã hội và cả hệ thống luật pháp của chúng ta đã đủ điều kiện để chấp nhận “quyền im lặng” mà không ảnh hưởng tới việc đảm bảo trật tự an ninh xã hội chưa? Hay cần có một sự tiến dần tới quyền đó. 

Rõ ràng với dân trí, với trình độ nhận thức về pháp luật hiện nay của người dân, với thực trạng gia tăng những hành vi chống đối nhà nước, phá hoại sự bình an xã hội của những thế lực phản động, việc chấp nhận ngay “quyền im lặng” sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của những lực lượng bảo vệ pháp luật.

Chính vì vậy, tôi đồng ý với ý kiến của Giám đốc công an Hà Nội, Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung khi ông đồng tình với dự thảo khi quy định theo hướng người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không bị ép buộc đưa ra lời khai chống lại chính mình và không bị ép buộc nhận mình có tội. 

Xin lưu ý để chống oan sai là một nhiệm vụ quan trọng, cần được luật hóa các công cụ phòng chống ép cung, mớm cung làm sai lệch vụ án. Nhưng những điều luật này cũng không thể tạo điều kiện bỏ lọt tội phạm, để pháp luật bất lực trước những tên tội phạm ranh ma, ngoan cố không nhận tội. Đáng lo hơn, nếu chúng ta vội vàng, có thể làm phát sinh thêm tội phạm, gây mất trật tự an ninh xã hội.

Luật sư Bùi Thu Quang 
(Văn phòng Luật sư Phạm Sơn, Hà Nội)

Có thể dẫn đến hậu quả không thể lường trước

Nếu đưa “quyền im lặng” của người bị tình nghi khi chưa có luật sư tham gia lấy lời khai vào Bộ luật Tố tụng hình sự, thì có thể sẽ dẫn đến nhiều hậu quả mà không thể lường trước được, bởi nếu người bị bắt chỉ phải khai báo khi có mặt tham gia của luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ, thì sẽ làm mất tính khẩn cấp trong công tác điều tra phá án nhanh.

Phải lấy lời khai ngay người bị bắt để thu giữ vật chứng cũng như để ngăn chặn hậu quả mà hành vi phạm tội của người bị bắt cùng đồng phạm đã thực hiện như việc giải cứu con tin, sơ tán người dân khỏi hiện trường vụ án, tháo gỡ bom mìn mà bọn khủng bố và đồng phạm của người bị bắt đã và đang thực hiện, ngoài ra còn nhiều hậu quả khác cần phải được ngăn chặn ngay, nếu chậm trễ sẽ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, kinh tế của Nhà nước.

Một thực tế cho thấy vị trí và nhiệm vụ của điều tra viên, kiểm sát viên với luật sư là khác nhau một bên từ những manh mối ban đầu để thu thập chứng cứ xác định sự thật khách quan, một bên là gỡ tội.

Về trình độ nghiệp vụ chuyên sâu của những người này cũng khác nhau, nếu có việc luật sư tham gia lấy lời khai người bị tình nghi ở giai đoạn này thì có thể từ xung đột về nhận thức pháp luật, xung đột về cách nhận định đối tượng bị tình nghi có phải là người thực hiện hành vi phạm tội hay không dẫn đến có những tư vấn gây khó dễ cho hoạt động điều tra ban đầu.

Việc xung đột trên cũng dễ hiểu bởi ngoài những chứng cứ làm căn cứ bắt nghi can, thì Cơ quan điều tra còn có những tài liệu trinh sát chưa được chuyển hóa thành chứng cứ, do đó họ có cách nhận định và đánh giá toàn diện và chính xác hơn đối với nghi can, còn luật sư chỉ bằng cảm quan và tin vào lời khai của người bị bắt để bảo vệ quyền lợi cho họ.

Nếu nghi can có quyền im lặng đến khi có luật sư tham gia được đưa vào luật, thì việc xem xét tính hợp pháp để cấp thủ tục giấy chứng nhận người bào chữa cũng gây chậm trễ và mất tính khẩn cấp trong việc bắt người phạm tội nhằm ngăn chặn họ và đồng phạm tẩu tán vật chứng, ngoài ra còn có thể dẫn đến việc để lộ thông tin khai thác đối với người bị bắt dẫn đến đồng bọn của họ tẩu tán vật chứng và chuẩn bị các phương án đối phó hoặc bỏ trốn.

Luật sư Nguyễn Anh Thơm, 
(Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh, Đoàn Luật sư TP Hà Nội)

Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương

* Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Hòa Bình: “Đề nghị không nên quy định trong luật là “quyền im lặng” vì dễ dẫn đến hiểu lầm là bị can, bị cáo có quyền im lặng không khai báo gì”.

* Thượng tướng Đặng Văn Hiếu - Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an: “Luật cần đảm bảo quyền dân chủ cho dân nhưng cũng phải tạo điều kiện cho cơ quan tư pháp làm việc, nếu không sẽ xảy ra tình trạng chúng ta bó tay trong cuộc đấu tranh chống tội phạm” .

* Thượng tướng Lê Quý Vương - Thứ trưởng Bộ Công an: “Tôi băn khoăn lắm về câu chuyện “quyền im lặng”, nếu đưa vào luật thì chẳng ai làm được. Cần phải xem xét quy định này một cách thấu đáo, công bằng nếu không sẽ gây khó cho cơ quan điều tra”.

* Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Đình Quyền: “Đồng tình với việc cho phép người tạm giam, tạm giữ có quyền im lặng. Tuy nhiên phải cân nhắc hiệu quả phòng chống tội phạm, nếu mở quá thì yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm khó có thể đạt được”.

* Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung -Giám đốc Công an thành phố Hà Nội: “Quy định theo hướng người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không bị ép buộc đưa ra lời khai chống lại chính mình và không bị ép buộc nhận mình có tội là phù hợp, còn quy định hẳn là “quyền im lặng” là không phù hợp với thực tiễn hiện nay”.

* Thiếu tướng Trịnh Xuyên - Giám đốc Công an Thanh Hóa: “Các cơ quan nêu ra quyền im lặng rất vô lý, không thể chấp nhận được. Với trình độ dân trí và điều kiện của chúng ta như vậy thì hoàn toàn không phù hợp, gây khó khăn cho các cơ quan đấu tranh bảo vệ pháp luật, dẫn đến hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm sẽ thấp”.

* Thiếu tướng Lê Đông Phong - Phó giám đốc Công an TP.HCM: “Bị can, bị cáo không bị ép nhận tội, nhưng đừng quy định một cách bắt chước nước ngoài là anh không cần phải khai báo”. 

* Ủy viên Thường trực Ủy ban Tư pháp của QH, Đỗ Văn Đương: “Dự thảo Bộ luật TTHS lần này đã đưa ra nhiều quy định mới, tưởng rằng tiến bộ, nhưng rất nguy hiểm, có thể làm “bó tay” các cơ quan tố tụng, dung túng tội phạm. Nếu chỉ vì số ít trường hợp bị oan mà chiều chuộng tội phạm là không phù hợp. Chúng ta quy định như là “quyền im lặng” của người phạm tội là không đúng, giết người cướp của cũng không khai báo là không đúng”.