Sa thải người lao động để...tránh thưởng Tết sẽ bị xử lý ra sao?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Do kinh doanh khó khăn nên hiện một số doanh nghiệp đã thông báo giảm hoặc không thưởng Tết, thậm chí còn tìm lý do chấm dứt hợp đồng với người lao động trước Tết để né thưởng…Vậy, hành vi này có trái luật?

Theo Điều 36 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong các trường hợp:

Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động.

(Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở).

Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Hoặc đã điều trị 6 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12-36 tháng; Hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động; Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;

Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 5 ngày làm việc liên tục trở lên; Người lao động cung cấp không trung thực thông tin khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động…

Việc người sử dụng lao động cố tình sa thải người lao động trước Tết không thuộc một trong các trường hợp trên là vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm chủ sử dụng lao động có thể bị phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về xử lý hành chính, theo Nghị định 12/2022/NĐ-CP, nếu sa thải người lao động trái pháp luật, người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt từ 1-20 triệu đồng .

Nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, hành vi sa thải người lao động trái pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm về Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật tại Điều 162 BLHS 2015 sửa đổi với mức hình phạt cao nhất lên tới 3 năm tù.

Khi bị sa thải trái pháp luật, người lao động có thể gửi đơn khiếu nại lần đầu tới người sử dụng lao động.

Nếu không được giải quyết hoặc việc giải quyết của người sử dụng lao động không thỏa đáng thì người lao động khiếu nại lần hai tới Chánh Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

Trường hợp sa thải gây hậu quả nghiêm trọng, người lao động có thể tố giác với công an nơi doanh nghiệp đặt trụ sở. Ngoài ra, người lao động có thể được bồi thường khi bị sa thải trái pháp luật, gồm: tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc; Trả thêm ít nhất bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động…