- ĐBQH: Cần làm rõ cơ chế điều phối với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng khi thực hiện biện pháp điều tra đặc biệt hoặc dẫn độ
- ĐBQH: Không thể để lỡ cơ hội phát triển chỉ vì điểm nghẽn của pháp luật
Trước đó, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Về tên gọi của người xin nhập quốc tịch Việt Nam, một số đại biểu Quốc hội đề nghị không nên quy định cứng phải có tên bằng tiếng Việt mà có thể là tên Việt hóa được hoặc có thể cho sử dụng tên gốc của người xin nhập quốc tịch Việt Nam bảo đảm hội nhập quốc tế.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý quy định tại khoản 4 Điều 19 và khoản 4 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng người xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho họ khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch.
![]() |
Kết quả biểu quyết |
Về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam, Chính phủ cho rằng, điểm a khoản 1 Điều 19 được sửa đổi, bổ sung theo hướng đối với người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vì dân sự đầy đủ”.
Theo đó, hồ sơ xin nhập quốc tịch được lập thông qua người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo pháp luật có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ phát sinh theo quy định pháp luật. Do đó, Chính phủ đề xuất giữ nguyên quy định tại dự thảo Luật.
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào điểm c khoản 1 tiêu chí định lượng dựa trên khung năng lực tiếng Việt 6 bậc dùng cho người nước ngoài để thống nhất cách hiểu, bảo đảm công bằng, minh bạch trong thực hiện; đồng thời, tạo động lực để người nước ngoài học tiếng Việt một cách bài bản nhằm hội nhập sâu hơn vào cộng đồng Việt Nam.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định miễn điều kiện biết tiếng Việt đối với người có người thân thích là công dân Việt Nam vì biết tiếng Việt mới giao tiếp, hiểu văn hóa, lịch sử Việt Nam. Đồng thời, cần quy định cụ thể yêu cầu về mức độ tiếng Việt của đối tượng này để có thể hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.
Theo Chính phủ, Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành đang miễn điều kiện “biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam” cho các trường hợp xin nhập quốc tịch Việt Nam có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ để, con đẻ của công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Dự thảo Luật tiếp tục kế thừa quy định này nhằm bảo đảm tạo thuận lợi, đơn giản hóa các giấy tờ trong hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam của các trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam.
Về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam, có ý kiến tán thành với quy định của dự thảo Luật về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam, trong đó, có ý kiển cho rằng đây là bước tiến đúng đắn giúp giải quyết những tồn tại pháp lý kéo dài, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho công tác quản lý dân cư, bảo vệ quyền con người.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý quy định này tại dự thảo Luật như sau “người đã mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 26 của Luật này có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì được xem xét giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam”.