Nỗi đau của người cha có con tâm thần bị kẻ đồi bại hãm hại

ANTĐ - Những lúc con trở bệnh, ông chỉ biết khóa cửa thật chặt rồi lủi thủi trốn sau vách nhà, đứng nhìn những đứa con của mình qua khe cửa sổ mà giọt nước mắt đắng cay cứ lăn dài trên gương mặt gầy gò khắc khổ của ông. Tiếng la hét, quát tháo của hai đứa con trong căn nhà ọp ẹp vẫn không ngừng vọng ra làm lòng ông như dao cứa từng khúc...
Nỗi đau của người cha có con tâm thần bị kẻ đồi bại hãm hại ảnh 1

Bi kịch ập đến

Nhà có một người điên đã khổ, nhưng ở thôn nghèo Diên Trường (thị trấn Thuận An, TT Huế), người đàn ông đã ngoài thất thập lại phải trông chừng đến 2 đứa con tâm thần và một đứa cháu ngoại mới đang bi bô tập nói. Đứa cháu ấy là kết quả của sự ngu ngơ đến đau đớn sau nhưng lần con gái ông bị kẻ xấu làm chuyện đồi bại. 

Chúng tôi tìm đến nhà ông Trần Hữu Dục (SN 1945) trong một buổi chiều cuối năm. Thấy có người hỏi thăm, ông Dục đang lúi húi chuẩn bị nấu cơm liền chạy ra với vẻ mặt ngạc nhiên vì “hiếm lắm nhà mới có khách”. Về nhà sau một ngày đi bắt ốc, ông Dục lại tất bật nấu cơm cho mấy đứa con thần kinh không ổn định và cháu ngoại gần 2 tuổi. Ông cười đau đớn bảo: “Cả ngày chúng nó mới được ăn một gói mỳ tôm thôi…”.

Cha mất sớm, nên từ thuở bé ông Dục đã phải trôi dạt đất khách quê người để mưu sinh, kiếm ăn qua ngày. Lo miếng ăn cho bản thân mình, rồi phải chắt chiu từng đồng gửi về cho mẹ nuôi hai đứa em nhỏ ở quê nhà. Chật vật với từng miếng cơm manh áo, với từng bữa đói, bữa no, nên mãi đến năm 41 tuổi ông mới nghĩ đến chuyện lập gia đình... Ngày ấy, ông Dục có quen một người đàn bà cùng quê, người đàn bà ấy cũng vì nghèo khó nên quá lứa nhỡ thì như ông. Chính sự cô đơn trên đất khách đã mang hai người đến gần nhau và cùng nhau kết nghĩa trăm năm. 

Hai vợ chồng sống êm ấm, hạnh phúc với nhau chừng 4 năm, sau một cơn bạo bệnh người vợ đã bỏ ông, bỏ lại người mẹ già và hai mụn con thơ dại ra đi. Vợ mất, thế là gánh nặng gia đình đổ hết xuống đôi vai ông, lấy của ông tất cả chút sức lực còn lại. Nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền bắt buộc ông phải làm việc cật lực từ phụ hồ, cuốc đất đến bốc vác để có tiền nuôi người mẹ già và hai đứa con thơ mới biết đi chập chững.

“Hồi ấy, lúc mẹ của các cháu mất, gia đình tôi hết sức khó khăn. Dù tôi đã cố gắng đi làm thuê từ sáng sớm đến đêm khuya mới về nhưng cái đói vẫn không buông tha. Gia đình tôi nhiều khi cả ngày chỉ ăn ốc và rau muống dại mỗi khi bão lũ đến. Hai đứa con của tôi vì thế nên thường đau ốm. Những lúc thấy chúng nó khóc vì đói tôi đứt từng khúc ruột, nhưng vì sức cùng lực kiệt nên tôi cũng đành bất lực!”, ông Dục nhớ lại. Tuy sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn nhưng hai đứa con của ông luôn biết thương cha, ngày ngày vẫn đi làm thuê kiếm tiền phụ bớt gánh nặng cho người cha già yếu của mình. Nhưng rồi bi kịch bỗng dưng ập đến với gia đình ông...

Sao đời lắm đắng cay đến thế?

Năm 2010, hai đứa con của ông đang yên lành bỗng nổi…điên. Đứa con trai đầu, Trần Hữu Tùng (SN 1984) sau một hôm đi làm thuê về tự nhiên đâm ra lẩn thẩn, đêm quên ngủ ngày quên ăn, chỉ khóc lóc chửi bới lung tung và thường hay bỏ đi lang thang giữa đêm khuya. Tưởng đâu con mình như thế chỉ vài ngày, chỉ cần ở nhà ăn uống bồi dưỡng rồi sẽ khỏi, nào ngờ bệnh tình của Tùng ngày càng nặng thêm. Suốt ngày Tùng đập phá đồ dạc, đá đấm thình thình vào vách nhà rồi chửi bới, khóc than... Thương con bệnh tật, thế là ông phải chạy vạy vay mượn tiền hàng xóm đem Tùng đi bệnh viện Tâm thần Huế chữa trị. Dù đã hơn nửa tháng điều trị mà bệnh tình của Tùng vẫn chưa mấy thuyên giảm, trong khi đó số tiền nhỏ nhoi vay mượn được đã hết. Vậy nên, ông đành ngậm ngùi đem Tùng về nhà để tiện trông nom, săn sóc. 

Sau chừng hai tháng uống thuốc men, bệnh tình của Tùng cũng đã bớt đi phần nào. Tuy nhiên, ông Dục chưa kịp mừng thì cô con gái út Trần Thị Điệp (SN 1986) cũng có biểu hiện giống như người anh trai mình. Suốt ngày Điệp kêu gào, xé áo, xé quần rồi chạy lang thang ngoài đường. Có ngày Điệp đi không về nhà, ông Dục phải cuống cuồng chạy đi tìm con gái trong đêm tối mù mịt. Hình ảnh người cha già gầy còm bước thấp bước cao, ngã lên, trượt xuống trong đêm quá quen thuộc với người dân ở đây.

Mỗi lần thấy ông đi tìm con dân làng lại cùng kéo nhau đi tìm cùng ông. Bà con thường giúp đỡ khi thì bơ gạo, hộp sữa khi thì vài đồng bạc để ông bồi bổ cho Tùng và Điệp cho chóng lành bệnh... Khi trời trở lạnh, nước lũ đổ về ông Dục vẫn phải trần mình để mò cua bắt ốc nên sức khỏe ông rất yếu. Ông Dục ho liên miên, nên không làm lụng được việc gì nặng. Mọi chi tiêu ăn uống trong gia đình đều trông chờ vào sự giúp đỡ của bà con lối xóm, trông chờ vào trợ cấp bệnh tật của hai đứa con ông được khoảng 540 ngàn đồng/tháng. Cứ ba, bốn bữa Tùng và Điệp lại trở bệnh một lần. Đứa thì xé rách áo quần, kêu gào, khóc lóc thảm thiết. Đứa rượt đuổi đòi đánh ông. 

Khi chúng tôi đến thăm, Tùng đã đi đâu biệt tích một tuần nay, ông Dục đi tìm khắp thôn xóm nhưng không thấy. Trong căn nhà ọp ẹp chẳng có lấy một vật gì giá trị ngoài chiếc quạt cũ, ông Dục với thân hình gầy guộc, tóc ngả bạc vừa bế cháu, vừa loay hoay tranh thủ pha cháo trắng bón cho đứa cháu ngoại ăn. Đứa cháu ấy là kết quả của những lần con gái ông bị kẻ xấu làm hại, mà ông cũng chẳng biết kẻ đồi bại đó là ai. Khi ông Dục thấy bụng con gái mình ngày một to lên, ông đã đau đớn, ốm nằm liệt giường li bì trong suốt một tuần liền.

Ngày ấy, cũng có người khuyên ông đưa con đi bỏ cái thai nhưng ông quyết định giữ bằng được đứa cháu ngoại của mình. Rồi Điệp cũng sinh ra đứa con trai kháu khỉnh. Hỏi ông Dục về cha của đứa trẻ, ông lắc đầu buồn bã nói: “Nào có biết ai là tác giả của đứa bé này đâu. Tôi thì suốt ngày ra đồng ra bãi bắt cua bắt ốc về kiếm gạo ăn. Ở nhà chẳng có ai trông chừng nó thì làm sao biết là của ai. Thôi thì là cháu mình, mình nuôi vậy! Nó sinh con ra mà nó không biết nuôi con. Cũng không biết cho con bú. Thân già như tôi đành phải thay nó làm nghĩa vụ của một người mẹ vậy!”. 

Cuộc sống của 3 cha con ông vốn đã rất khó khăn, nay lại thêm đứa cháu nên túng thiếu cứ bủa vây lấy gia đình ông. Ông thường xuyên nhường cơm cho con cháu, còn mình chỉ cạo ít cháy bám đáy nồi chan với nước canh lõng bõng ăn qua bữa. Bà Nguyễn Thi Mai, hàng xóm ông Dục kể lại: “Ông Dục khổ lắm! Già yếu rồi mà vẫn phải thức khuya dậy sớm ra đồng nuôi mấy đứa con lớn tồng ngồng mà chẳng biết gì. Ông ấy ho triền miên cả tháng nay mà chẳng dám bỏ tiền mua thuốc uống. Nhưng tội nghiệp nhất là đứa nhỏ. Nhiều lần tôi thấy nó đói cứ khóc cả đêm. Bà con ở quanh đây dù có hỗ trợ nhưng cũng chẳng thể nào vơi bớt khó khăn được”. Đã ở cái tuổi thất thập, ông Dục không còn đủ sức làm lụng công việc nặng nhọc nữa.

Ngoài những khi mò cua bắt ốc, ông lại lân la với các chợ để làm những việc vặt kiếm chục nghìn lẻ về nuôi con cháu mình. “Nhiều khi thấy khổ tâm lắm, cầu trời khấn phật cho tôi khỏe thêm mấy năm nữa để đi làm nuôi cháu lớn thêm. Mỗi ngày tôi chỉ dám tiêu 10 nghìn vì còn chắt bóp đề phòng lúc ốm đau! Tám tháng nay rồi, tôi cứ vay mượn để mua sữa cho cháu. Nhiều người bảo tôi mang cho cháu đi nhưng đứa trẻ này vô tội. Rủi tôi cho cháu đi, sau này lỡ có việc gì thì đến chết tôi vẫn không khỏi ân hận! Tôi cố chăm cho nó được chừng nào thì hay chừng ấy trong sức của mình thôi!” ông Dục nghẹn ngào.

Ôm đứa cháu vào lòng, ông Dục cười bảo: “Tên cháu là Nguyễn Văn Hinh. Vì mẹ cháu đau ốm thế nên Hinh không uống được sữa mẹ. Cứ mỗi tuần tôi lại phải trích ra 100 nghìn trong số tiền mà bà con giúp đỡ và một ít tiền từ việc làm thuê của mình để mua sữa, mua cháo bồi bổ cho cháu Hinh đấy!”. Lúc trò chuyện với tôi, ông Dục cho biết mẹ cháu Hinh vừa từ bệnh viện tâm thần Huế về nhà được hai tuần nhưng trông cô vẫn khờ khạo, cứ ngồi thu lu ở góc giường cười nói một mình khi thấy người lạ. Có lẽ một góc nhỏ bé nào đó trong trí nhớ mình, cô vẫn còn sợ hãi cái khoảnh khắc bị cưỡng bức. Trong làn nước mắt, ông Dục nói: “Giờ tôi chỉ mong nó đi trước tôi. Chứ giờ tôi già không biết sống được bao lâu, chết rồi ai lo được cho mẹ con nó đây!”. Nghe lời nói của người đàn ông khốn khổ cả một đời mà sao thấy lắm nỗi đắng cay đến thế…