Những ca phẫu thuật "rùng rợn" nhất lịch sử thế giới

ANTD.VN - Trong lịch sử y học thế giới đã ghi nhận những ca phẫu thuật “rùng rợn” đến khó tin: tự cắt bỏ ruột thừa, biến mắt cá chân thành đầu gối, cắt bỏ một nửa bán cầu não, ghép hai tim cùng lúc…Những ca phẫu thuật này được xem là những ca phẫu thuật “kinh dị” nhất thế giới, nhưng chính  phương pháp phẫu thuật này đã làm thay đổi cuộc sống của rất nhiều người mỗi ngày.

Với những phương pháp phẫu thuật này, khi nhắc đến có thể sẽ khiến nhiều người “kinh ngạc” thế nhưng ở thời điểm đó nó lại được xem như một thành tựu của nền y học.

Tự phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa

Theo Kiến thức, vào năm 1921, giới y học thế giới hết sức kinh ngạc trước khả năng phi thường của một bác sĩ phẫu thuật có tên Evan O’Neill Kane. Người này đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới vì đã tự phẫu thuật cắt ruột thừa cho mình chỉ với một chiếc gương và phương pháp gây tê tại chỗ mà không nhờ bất kỳ sự trợ giúp nào khác.

Tự cắt bỏ ruột thừa của mình mà không cần sự trợ giúp nào

Ca phẫu thuật này tưởng chừng như khó thành công ấy đã khiến vị bác sĩ tài ba quyết định tiếp tục tự mình thực hiện thêm một ca phẫu thuật phức tạp khác do bị thoát vị bẹn vào năm 1932, khi đó ông đã 70 tuổi. Dù vừa phẫu thuật, vừa nói đùa vui thoải mái, nhưng bác sĩ Kane vẫn thực hiện chính xác đến từng milimét. Ông được cho là người đầu tiên và cũng là duy nhất từ trước tới nay tự phẫu thuật cho mình theo cách này.

Trong ca phẫu thuật có 3 bác sĩ khác đứng chứng kiến ca phẫu thuật có một không hai này để sẵn sàng ứng cứu, đề phòng trường hợp “bất trắc” có thể xảy ra. Tuy nhiên, ca phẫu thuật đã thành công ngoài mong đợi. Bệnh nhân - bác sĩ Kane nhanh chóng phục hồi và trở lại khoẻ mạnh bình thường.

Cắt bỏ một bên não

Ca phẫu thuật cắt bỏ một bên não do bác sĩ phẫu thuật thần kinh Ben Karson tiến hành vào ngày 11-6-2007. Đây được ghi nhận là ca phẫu thuật rùng rợn nhất từ trước tới nay.

Bệnh nhân là bé gái Jessie Hall, 6 tuổi, ở Aledo, bang Texas (Mỹ). Jessie bị mắc phải một chứng bệnh nan y hiếm gặp có tên hội chứng Rasmussen (hội chứng viêm não) khiến cho não của em bị ăn mòn rồi dẫn đến những cơn co thắt toàn thân.

Phẫu thuật cắt bỏ một bên não được ghi nhận là ca phẫu thuật rùng rợn nhất

Tỉ lệ mắc căn bệnh này là 1/1000 đứa trẻ, thế nhưng ca phẫu thuật tương tự là chưa từng xảy ra và cơ may sống sót đối với người bệnh rất thấp. Tuy nhiên, đây lại là cách duy nhất có thể cứu sống bé Jessie. Phần não được cắt bỏ là phần não bị mắc bệnh viêm não không có khả năng chữa trị, còn nếu để nguyên sẽ làm tổn thương dây chuyền sang bán cầu não còn lại.

Sau khi quyết định các bác sĩ đã chọn phương án mạo hiểm nhất là phẫu thuật cắt nửa bên não với tỷ lệ sống hết sức mong manh. Tuy nhiên kết quả thật bất ngờ, phương pháp này không những đã cứu sống bé Jessie, mà còn cho em những hy vọng mới về cuộc sống. Sau ca phẫu thuật, Jessie đã có những dấu hiệu hồi phục tuyệt vời.

Ca phẫu thuật cho bào thai trong bụng mẹ kỳ lạ nhất thế giới

Đây được xem là một ca phẫu thuật khó tin nhất trong lịch sử y học, khi đứa trẻ chưa sinh ra nhưng các bác sĩ đã tiến hành phẫu thuật cắt khối u cho thai nhi. Sau khi đã mang thai được 6 tháng, Keri Mc Cartney, sống ở Laredo, bang Texas (Mỹ), mới đi siêu âm và vô cùng lo sợ khi phát hiện ra có một khối u nguy hiểm mọc ở xương cụt của thai nhi. Khối u này gây cản trở việc máu cung cấp cho cơ thể thai nhi và có thể khiến cho bé tử vong.

Phẫu thuật thai nhi khi còn trong bụng mẹ

Đứng trước tình thế nguy hiểm để cứu đứa trẻ chưa chào đời, các bác sĩ phẫu thuật thuộc Bệnh viện nhi ở Histon (Mỹ) đã tiến hành mổ tử cung của cô để đưa 80% cơ thể của thai nhi ra ngoài, chỉ để đầu và vai ở bên trong cơ thể người mẹ. Họ đã nhanh chóng cắt bỏ khối u rồi đặt đứa trẻ trở lại trong tử cung và khâu bọc ối lại. Và chỉ 10 tuần sau khi phẫu thuật, đứa trẻ chào đời hoàn toàn khỏe mạnh và được đặt tên là Macie Hope Mc Cartney.

Tái tạo khuôn mặt đã bị biến dạng

Theo Thể thao – Văn hóa, vào tháng 1-2007, các bác sĩ ở Pháp đã thực hiện thành công một ca phẫu thuật cực khó nhằm đem lại “ánh sáng” cuộc sống cho một bệnh nhân bị một khối u quái dị làm biến dạng khuôn mặt một cách kinh khủng. Đây là trường hợp của bệnh nhân Pascal Coler, 31 tuổi. Khối u khổng lồ đã làm cho Pascal không thể ăn uống bình thường và biến anh trở thành một con người sống ẩn dật.

Pascal Coler trước và sau phẫu thuật

Pascal đã phải trải qua hơn chục ca phẫu thuật trước đó để làm giảm kích thước khối u này. Giáo sư Loran Lantieri cùng các đồng nghiệp tại bệnh viện Henri - Mondor gần Paris (Pháp) đã tiến hành cắt khối u, đồng thời cấy ghép lại toàn bộ các chi tiết trên khuôn mặt của Pascal từ môi, cằm, mũi cho đến miệng… bởi khối u có liên quan đến phần xương mặt. Ca phẫu thuật đã được thực hiện trong vòng 16h và đã kết thúc thành công.

Ca phẫu thuật kéo dài kỷ lục 96 giờ

Ca phẫu thuật loại bỏ khối u buồng trứng khổng lồ cho một phụ nữ ở thành phố Chicago (Mỹ) vào năm 1951 được coi là ca phẫu thuật kéo dài nhất trong lịch sử ngành y khoa. Ca phẫu thuật này bắt đầu được tiến hành vào từ ngày 4-2 đến ngày 8-2 năm 1951 với tổng thời gian lên tới 96 giờ đồng hồ, tức 4 ngày đêm.

Bệnh nhân 58 tuổi, Gertruda Levandovski, trước khi tiến hành phẫu thuật có cân nặng lên tới 277 kg. Thế nhưng, khi ca phẫu thuật kỷ lục này kết thúc, cân nặng của Gertruda chỉ còn có 138 kg, chỉ còn bằng một trọng lượng lúc ban đầu.

Sở dĩ Gertruda bị sút cân nhanh và nhiều đến vậy là vì các bác sĩ đã phải liên tục vừa phẫu thuật vừa băng khối u rồi từ từ làm khô nước dịch chảy ra nhằm ngăn chặn sự tụt huyết áp có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động của tim.

Biến mắt cá chân thành đầu gối

Như TPO đưa tin, Rotationplasty là một hình thức đặc biệt của phẫu thuật tái tạo cho phép mắt cá chân được sử dụng như một khớp gối. Các thủ tục liên quan đến việc phẫu thuật cắt bỏ đáy của xương đùi, đầu gối và xương chày trên. Phần dưới của chân sau đó được xoay 180 độ và gắn vào đùi. Nói một cách đơn giản, bàn chân được gắn vào đầu gối phía sau. Một khi chân giả được  lắp vào, mắt cá chân có chức năng như đầu gối.

Cô bé Gabi có thể trở thành vũ công nhờ phương pháp biến mắt cá chân thành đầu gối

Rotationplasty thường được thực hiện ở trẻ em có khối u xương ác tính - chẳng hạn như osteosarcoma hoặc Ewing sarcoma - gần đầu gối mà không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Mục đích chính của rotationplasty là để loại bỏ hoàn toàn khối u, nhưng theo cách cho phép một đứa trẻ có một lối sống năng động, mà sẽ không thể với đầy đủ cắt cụt.

Một ví dụ tuyệt vời về sự thành công của thủ thuật này là Gabi Shull, 14 tuổi, đến từ Missouri, Mỹ. Gabi cho biết, phương pháp này đã thay đổi cuộc đời cô. Lúc 9 tuổi, Gabi được chẩn đoán bị osteosarcoma ở đầu gối. Khối u không hoạt động được, và sau 12 tuần hóa trị, Gabi và cha mẹ cô quyết định chọn phương pháp điều trị mới này. Chỉ 1 năm sau khi phẫu thuật, Gabi đã có thể đi lại và 2 năm sau, cô ấy là một vũ công giỏi. "Phẫu thuật đã cho phép tôi làm nhiều hơn tôi mong đợi”.

Khôi phục thị giác bằng... răng của bệnh nhân

Phương pháp này có tên gọi là OOKP, viết tắt những chữ cái đầu của osteo-odonto-keratoprosthesis. Trường hợp đầu tiên được thực hiện vào năm 1960 bởi Giáo sư Benedetto Strampelli, của Bệnh viện San Camillo ở Ý.

OOKP có thể được sử dụng cho bệnh nhân bị mù do tổn thương không thể phục hồi đến giác mạc,lớp ngoài của mắt  khi  những phương pháp điều trị khác thất bại.

Tái tạo mắt giả từ răng là phương pháp kì lạ nhưng hiệu quả và đã thành công

Quy trình này bao gồm việc nhổ bỏ răng nanh của bệnh nhân và xương xung quanh. Sau đó người ta khoan một lỗ trong răng và nhét vào đó mắt kính plastic. Cấu trúc răng-mắt kính sau đó được cấy vào má của bệnh nhân, nơi nó phát triển các mạch máu mới trong một vài tháng. Cấu trúc này sau đó được lấy ra khỏi má và cấy vào mắt. Ánh sáng có thể di chuyển qua mắt kính này và phục hồi thị lực của bệnh nhân.

Vào năm 2013, The Telegraph đưa tin, một người đàn ông Anh đã lấy lại thị lực của mình sau khi trải qua OOKP. Năm 1999, Ian Tibbetts bị mất thị lực hoàn toàn sau một vụ  tai nạn tại nơi làm việc. Vào tháng 12-2012, Ian đã trải qua OOKP tại Bệnh viện mắt Sussex - bệnh viện duy nhất ở Vương quốc Anh thực hiện quy trình - và lần đầu tiên có thể nhìn thấy các con của mình.

Ghép hai tim cùng lúc

Thông thường, con người chỉ có một tim. Đối với những người phải ghép tim, các bác sỹ cắt bỏ tim hỏng và thay bằng tim mới khỏe mạnh. Các ca ghép tim đã cứu sống hơn 2.000 sinh mạng mỗi năm tại Mỹ. Tuy nhiên, đối với những người không thể tiếp nhận tim mới hoặc tim của người hiến tặng không hoạt động một mình được, các bác sỹ đã sử dụng phương pháp ghép tim dị tính, cho phép một người có hai trái tim cùng hoạt động trong cơ thể.

Ghép tim dị tính là cả hai trái tim đều được phẫu thuật, cho phép máu từ trái tim bị tổn thương chảy vào trái tim mới. Trái tim mới có thể bơm máu xung quanh cơ thể.

Năm 2011, các nhà nghiên cứu từ Đại học California-San Diego, Mỹ đã báo cáo thực hiện thủ tục phẫu thuật hiếm hoi này cho một người đàn ông tên là Tyson Smith, người bị suy tim. Tiến sĩ Michael Madani, thuộc Trung tâm Tim mạch California-San Diego Sulpizio giải thích: "Loại bỏ trái tim cũ và thay thế nó bằng một trái tim mới sẽ khiến trái tim mới thất bại, bởi huyết áp phổi quá cao. Nhưng hoạt động cùng nhau, hai trái tim chia sẻ công việc và hoàn thành nhiệm vụ".

Cấy ghép đầu

Vào năm 2013, bác sĩ giải phẫu thần kinh người Ý, Tiến sĩ Sergio Canavero đã công bố các đề xuất để thực hiện ca ghép đầu tiên trên thế giới - một thủ thuật mà ông tin rằng có khả năng điều trị tê liệt do các bệnh thần kinh hoặc cơ tật.

Thủ thuật có tên HEAVEN-GEMINI - sẽ liên quan đến việc tách đầu của người nhận và người hiến tặng khỏe mạnh bằng cách sử dụng "lưỡi dao siêu sắc" để tránh tổn thương tủy sống. Việc cấy ghép đầu người đầu tiên trên thế giới được tiến hành vào tháng 12 năm 2017.

Đầu của người hiến tặng và cơ thể người nhận sau đó sẽ được đặt vào tình trạng hạ thân nhiệt sâu trong khoảng 45 phút để giảm tổn thương thần kinh. Đầu của người hiến tặng sau đó sẽ được gắn vào cơ thể người nhận bằng cách sử dụng hợp nhất dây thần kinh tủy sống. Ca phẫu thuật này kéo dài 36 giờ với sự tham gia của 150 bác sỹ và y tá lành nghề và chi phí khoảng 11 triệu USD.

Sau khi hoàn tất thủ thuật, người nhận được giữ trong tình trạng hôn mê trong 3-4 tuần, để giảm thiểu chuyển động và đảm bảo các kết nối thần kinh giữa cổ và cột sống có thời gian để hợp nhất với nhau.

Tiến sĩ Canavero nói với Medical News Today rằng việc cấy ghép đầu tiên ở người đã được thực hiện vào tháng 12 năm 2017 và đây không còn là phim khoa học viễn tưởng nữa.