Mời Quốc khách thưởng trà sen

ANTD.VN - Thuở nhỏ, vào những dịp hầu trà các bậc thúc bá trong gia đình, tôi vẫn thường nghe các cụ bảo: “Trà là một nghệ thuật lớn”. Không phải ngẫu nhiên mà trong tất cả các thức uống của cõi nhân sinh này, trà được xem là nghệ thuật tinh vi nhất. 

Mời Quốc khách thưởng trà sen ảnh 1Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thưởng thức các loại trà nổi tiếng của Việt Nam

1. Khởi từ đất trồng, địa hình, khí núi, nắng mưa, sương gió tưới tắm, ươm bật thành lộc non, lá nõn cho đến khi thu hái, sao chế, để có được một ấm trà ngon ngồi pha mà nhâm nhi thưởng thức, đó là cả một hành trình dằng dặc mà mỗi chặng, mỗi nhịp đều phải đạt đến được cái chân nghệ thuật thì cái đích cuối cùng: một chén trà ngon mới thật là viên mãn.

Cũng một vườn trà nhưng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông là bốn mùa trà với bốn mùa hương vị. Tuyệt hảo nhất là trà “Xuân 1” hay còn gọi là trà “Tiền minh” (trước tiết Thanh minh). Khi cái giá rét của mùa đông vừa qua đi, những tia nắng ấm đầu tiên của mùa xuân vừa ló rạng thì những đọt non cũng bừng nhú trên những cành chè khẳng khiu.

Thứ đọt non ấy nếu hái lúc sớm tinh mơ, khi cả đồi chè còn chìm trong sương rồi đem về “sao suốt” trên chảo gang thì hương thơm ngào ngạt như chõ xôi nếp cái, hậu vị ngọt bền vấn vít mãi trong cổ họng như ngậm đường phèn. Các cụ bảo: “Uống một tách trà, đi xa vạn dặm” là vậy.

Loại trà ấy, thời xưa, chuyên dùng để tiến vua. Khi búp trà được sao khô trên chảo gang dưới bàn tay chai dày của những nghệ nhân nức tiếng sẽ cong như lưỡi con chim sẻ nên còn gọi là trà “Tước thiệt” (lưỡi con chim sẻ). Tôi đọc sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi thấy ghi danh trà hảo hạng này được sản xuất ở vùng Châu Sa Bôi, tức Quảng Trị ngày nay. 

Cùng với Trung Hoa, Nhật Bản, Sri Lanka, Ấn Độ, Việt Nam là một trong những chiếc nôi cổ nhất của cây chè thế giới. Minh chứng sinh động cho nhận định chắc nịch này là cánh rừng chè cổ thụ bạt ngàn khoảng 40.000 cây trải dài suốt một dải Suối Giàng thuộc Văn Chấn, Nghĩa Lộ (Yên Bái), trong đó có 3 cây chiều cao 8 mét, đường kính 3 người ôm không xuể. Đây là niềm tự hào rất lớn của người dân đất Việt về trà. Bởi những cây chè cổ thụ như thế, trên thế giới có thể dễ dàng đếm hết trên mấy đầu ngón tay.

Sự xuất hiện sớm của cây chè đã đưa người Việt Nam lên hàng những dân tộc biết uống trà sớm nhất thế giới. Tục uống trà ở Việt Nam rất phong phú. Từ cách uống cầu kỳ cổ xưa của tầng lớp vua chúa, phong lưu quyền quý đến cách uống bình dân, hiện đại. Thường một bộ đồ trà có 3 chén quân, 1 chén tống để chuyên trà. Nước pha trà phải là thứ nước mưa trong hoặc thứ sương đọng trên lá sen mà người đi thuyền hứng từng giọt vào buổi sớm. 

2. Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam là người ta lại nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội. Vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao. Nếu người dân vùng khác thích uống trà “mộc” (trà không ướp hương) thì nhiều gia đình Hà Nội xưa lại thích uống trà ướp sen, trà nhài, trà ngâu, trà cúc, trà sói...

Đặc biệt trà sen là một thứ trà quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu. Trà sen tựa thứ trà mạn Hà Giang, mỗi cân ướp từ 1.000 - 1.200 bông sen Tây Hồ và phải là thứ sen chưa bóc cánh với “độ” hương cao nhất. Trà sen loại đặc biệt giá lúc nào cũng ở mức 2 - 3 chỉ vàng. Ở Hà Nội hiện còn khoảng 6 gia đình làm loại trà này. 

Với người Hà Nội, uống trà là một thú chơi thanh tao. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, người ta phải để vào đó nhiều công phu. Những công phu đó, dần trở thành lễ nghi. Trong ấm trà ngon, người ta thấy phảng phất một mùi thơ và một vị triết lý. Để có được chén trà ngon thì bình trà và tách uống trà phải được làm nóng lên bằng nước sôi. Trà cụ dùng để xúc trà, lấy bã trà đều bằng tre khô hoặc gỗ thơm.

Khi châm nước lần một gọi là “cao sơn trường thủy” rồi chắt ngay ra. Đây là thao tác “tráng trà” nhằm loại hết bụi bẩn và cho trà khô kịp thấm không nổi lềnh bềnh. Lần thứ hai đổ nước vào ấm gọi là “hạ sơn nhập thủy” nên đổ nước cao, tràn miệng bình để khi đậy nắp lại, bụi trà tràn ra hết, rồi dội nước sôi lên nắp để giữ nhiệt độ cao nhất cho ấm trà. Nước hai chính là nước ngon nhất được tạo ra trong vòng 1 - 2 phút, có hương vị đượm đà, thơm tho níu quyến. 

Dâng chén trà theo đúng cách là ngón giữa phải đỡ lấy đáy chén, ngón trỏ và cái đỡ miệng chén gọi là “Tam long giá ngọc”. Người dâng trà và người nhận trà đều phải cung kính cúi đầu. 

Dâng trà và dùng trà cũng là một biểu hiện phong độ văn hoá, sự thanh cao, tình tri âm, tri kỷ, lòng mong muốn hoà hợp và sự giảm bớt, xoá đi những đố kỵ, hận thù. 

Những khía cạnh của văn hóa ứng ứng xử Việt Nam rất phong phú và biểu hiện tập trung nhất ở tục uống trà. Người ta có thể uống trà một cách im lặng và nhiều khi, im lặng là “nói” rồi. Tuy nhiên, trà cũng rất cần sự tiết độ. Người Việt Nam không uống trà ừng ực, đặc quá và cũng không thể uống liên tục suốt ngày. Vì trà là một triết học về sự tế nhị, nhạy cảm, thanh tao, sự suy ngẫm và óc tỉnh táo. Ở Việt Nam luôn tồn tại một nền văn hoá trà thanh lịch và tỏa hương. 

Trong nghệ thuật ướp trà sen, trà mạn hảo được ưa chuộng nhất. Đó là trà Tuyết Shan cổ thụ vùng mạn ngược Hà Giang mọc tự nhiên trên những dãy núi cao từ 800 - 1.300m quanh năm sương phủ. Để chống chọi với khí hậu khắc nghiệt, những búp trà phải gồng sức vươn lên đón nhận từng giọt nắng mặt trời. Chính cuộc chống trả quyết liệt cho sự sinh tồn ấy đã tạo cho trà Tuyết Shan một hương vị đặc biệt, khiến những người sành trà luôn săn tìm, yêu thích. Các nghệ nhân trà Hà Nội trân trọng, nâng niu như một báu vật. 

Họ chọn lựa những búp trà non, những lá trà bánh tẻ. Sau khi phơi khô, họ cho trà vào chum (vại), trên phủ một lớp lá chuối khô, ủ từ... 3- 4 năm cho trà phong hóa bớt chất chát, có độ xốp như giấy bản mà hương vị đặc trưng của trà vẫn lưu giữ. 

Khi ướp, người ta rải một lớp trà rồi một lớp gạo sen mỏng, rồi lại một lớp trà, một lớp gạo sen. Cứ thế cho đến khi hết trà. Sau cùng, phủ một lớp giấy bản. Thời gian ướp tùy thuộc vào độ ẩm của gạo sen nhiều hay ít, thường từ 18 - 24 giờ. Sau đó, đem sàng để loại bỏ những hạt gạo sen. Sàng loại xong, trà được đóng vào những chiếc túi làm bằng giấy chống ẩm để giữ lấy cả hương sen lẫn hương trà rồi sấy cho đến khi cánh trà khô, hương sen quyện thì bỏ ra.

Lại ướp một lần sen thứ hai, thứ ba, thậm chí thứ tư, thứ năm tùy thuộc vào sở thích của người thưởng trà đậm hay nhạt. Càng ướp nhiều lần thì hương sen càng quyện vào cánh trà, trà càng thơm. Trung bình, mỗi cân trà ướp cần từ 1.000 - 1.200 bông sen. Cho nên, không phải ngẫu nhiên, mỗi cân trà sen được đổi bằng 2 - 3 chỉ vàng mà người sành trà vẫn nao nức lùng mua bằng được. 

Mời Quốc khách thưởng trà sen ảnh 2Nghệ nhân trà Hoàng Anh Sướng trong một buổi hầu trà Nhà Vua cùng Hoàng hậu Nhật Bản và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội

3. Khi đã gắn đời mình với nghiệp trà, noi gương cổ nhân, tôi đã đi khắp mọi nẻo đường để nghiên cứu và truyền bá văn hóa trà Việt Nam với hàng nghìn buổi nói chuyện, trình diễn khắp mọi miền đất nước và nhiều nơi trên thế giới.

Nhưng với tôi, chưa có buổi trình diễn trà nào để lại nhiều ấn tượng, cảm  xúc như buổi dâng trà cho Nhật Hoàng và Hoàng hậu vào sáng  3-3-2017 tại nhà khách Văn phòng Trung ương Đảng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và phu nhân đã tổ chức bữa tiệc trà tiếp đón Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam. Tôi vinh dự được pha trà và dâng trà các vị khách quý. 

Bữa tiệc trà hôm đó chỉ kéo dài chừng 30 phút nhưng tôi đã phải chuẩn bị cho buổi trình diễn trà vô cùng kỹ càng, công phu. Hồi hộp, lo âu, căng thẳng nhưng khi Đức Vua cùng Hoàng hậu xuất hiện, tiến về phía bàn trà, nụ cười trìu mến, thân thiện cùng cái bắt tay nồng ấm của Ngài khiến những lo âu, căng thẳng trong tôi chợt tan biến. Khi tôi chắp tay búp sen cùng nụ cười tươi thay lời chào, Hoàng hậu cũng chắp tay búp sen đáp lễ. Sang trọng mà gần gũi, lịch thiệp mà thân thiện, đó là vẻ đẹp luôn tỏa rạng ở hai người. 

Trong bữa tiệc trà sáng hôm ấy, tôi đã dâng mời Vua Nhật và Hoàng hậu, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và phu nhân cùng quan khách hai nước thưởng thức 2 đặc sản trà nổi tiếng của Việt Nam: Trà Tân Cương thượng hạng (chỉ hái một đọt non trên cùng), vùng trà xanh nổi tiếng nhất của tỉnh Thái Nguyên và Trà sen Tây Hồ (do chính bàn tay tôi tẩm ướp theo phong cách truyền thống). Hương thơm của trà Việt, hậu vị ngọt bền của trà Việt đã chinh phục hoàn toàn Đức Vua, Hoàng hậu Nhật Bản và toàn thể quan khách. Các vị đã uống cạn những chén trà với vẻ thích thú và liên tục ban tặng những lời khen. 

Kết thúc buổi tiệc trà, khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và phu nhân tiễn khách, Đức Vua và Hoàng hậu tiến về phía bàn trà của tôi lần nữa, ban tặng lời khen “trà ngon quá”, cùng lời cảm ơn, nụ cười tươi mát như hoa. Đức Vua và Hoàng hậu bắt tay tôi lần nữa. Bàn tay hai người thật mềm, thật ấm áp. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cười vui: “Cháu đúng tên là Sướng. Sướng nhé”. Đức Vua và Hoàng hậu đã lên xe nhưng năng lượng an lành, tươi mát vẫn lan tỏa trong trà phòng. 

Tôi chợt ngộ ra một điều, chỉ có trà mới đem lại cho buổi gặp gỡ giữa hai người đứng đầu hai quốc gia - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Nhật Hoàng, không khí tươi mát, ấm áp, an lành đến như vậy. Chỉ có trà mới mang một bậc đế vương từ nước Nhật xa xôi đến với một người dân bình thường ở Việt Nam là tôi một cách gần gũi, thân mật đến như vậy. Một chén trà nhỏ mà chứa đựng biết bao năng lượng của bình an, tình thương mến. Một chén trà nhỏ mà bắc cả một nhịp cầu yêu thương, hòa bình gắn kết giữa hai quốc gia. 

Với tôi, buổi hầu trà Vua Nhật và Hoàng hậu Nhật sáng 3-3-2017 là buổi hầu trà đáng nhớ nhất trong đời.

Mời Quốc khách thưởng trà sen ảnh 3

Nghệ nhân trà Hoàng Anh Sướng sinh ngày 26-4- 1973 trong một gia đình truyền thống làm trà nổi tiếng ở Hà Nội. Anh là truyền nhân đời thứ 6 của dòng trà Trường Xuân. Anh đã dành cả cuộc đời đi khắp mọi miền đất nước và nhiều nơi trên thế giới để truyền bá vẻ đẹp của văn hóa trà Việt Nam, nghệ thuật trà Việt Nam.