Hạt gạo xuất khẩu Việt Nam đang "lép"

ANTD.VN - Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã phải điều chỉnh giảm chỉ tiêu xuất khẩu gạo năm 2016 tới 800.000 tấn so với kế hoạch đưa ra đầu năm bởi thị trường gặp nhiều khó khăn. Có thâm niên xuất khẩu 20 năm nhưng đến nay, gạo Việt Nam đang dần bị mất thị trường, từ châu Âu tới châu Á. 

Người tiêu dùng các nước không thể nhớ tên loại gạo nào của Việt Nam

Bị cạnh tranh gay gắt

Vài năm trở lại đây, thị trường xuất khẩu của hạt gạo Việt Nam liên tiếp thu hẹp, bị cạnh tranh gay gắt vì các nước tăng cường sản xuất gạo. Đáng nói, trong khi các nước sản xuất gạo chất lượng cao thì Việt Nam vẫn mải miết sản xuất gạo năng suất cao, phẩm cấp thấp. Điều này khiến cho giá và lượng gạo xuất khẩu giảm mạnh.

Ở thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc (chiếm 35% thị phần), lượng và giá xuất khẩu cũng giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm 2016, lần lượt là 23% và 13%. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là do gạo Việt đã và đang bị gạo Campuchia, gạo Thái Lan giành mất thị phần.

Trong khi gạo Việt Nam có phần lép vế thì gạo Campuchia lại nổi lên như một “hiện tượng” trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo. Chỉ mới đặt chân vào lĩnh vực này 5 năm mà gạo Campuchia đã nổi tiếng trên thế giới (3 năm liên tiếp đạt danh hiệu gạo ngon nhất thế giới và có tới 8 thương hiệu để trưng bày tại Hội chợ thương mại lương thực được tổ chức ở Bangkok (Thái Lan). 

Không chỉ ở thị trường quốc tế, gạo Campuchia thậm chí còn đang thâm nhập thị trường Việt Nam. Chuyên gia về nông nghiệp, GS Võ Tòng Xuân cho biết, mỗi năm, Campuchia chỉ xuất khẩu mấy chục nghìn tấn gạo nhưng chủ yếu bán sang Việt Nam. Một bộ phận người Việt Nam chuộng gạo Campuchia hơn bởi gạo ngon, cơm thơm hơn và giá cũng phù hợp.

Trên thực tế, theo GS Võ Tòng Xuân, Campuchia trồng giống lúa mùa, 6 tháng/vụ, thường những giống trồng dài ngày có chất lượng ngon hơn giống ngắn ngày. Trong khi đó, ở Việt Nam, đất được tận dụng một năm 3 vụ, chủ yếu là giống ngắn ngày. Để cho năng suất cao, người nông dân còn sử dụng nhiều phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. 

Loay hoay làm thương hiệu

Dù nhiều nước áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gạo, thậm chí không mở cửa thị trường trong đàm phán các hiệp định thương mại tự do - FTA nhưng với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), EU đã chấp nhận dành cho Việt Nam sự ưu ái lớn ngay khi hiệp định có hiệu lực (dự kiến 2018).

Cụ thể, EU sẽ tăng hạn ngạch nhập khẩu gạo của Việt Nam lên 100.000 tấn, với mức thuế suất bằng 0%. Riêng gạo tấm không có hạn ngạch, thuế sẽ giảm về 0% theo lộ trình. Theo các phân tích, với cam kết này, riêng đối với gạo (trừ gạo tấm), mức giảm thuế của EU sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tiết kiệm được gần 17 triệu euro (khoảng 20 triệu USD) tiền thuế một năm.

Nhưng liệu hạt gạo Việt Nam có đủ sức để cạnh tranh, tận dụng tốt thời cơ này để bứt phá ở trời Âu thì chưa ai dám chắc.  Bởi thực tế cho thấy, gạo Việt xuất khẩu vào thị trường EU đang giảm dần; từ 24.000 tấn xuống còn 20.000 tấn năm 2014 và 18.000 tấn năm 2015.

Ông Đặng Hoàng Hải, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu, Bộ Công Thương cho biết, từ trước đến nay, sản lượng gạo của Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu luôn ở mức “khiêm tốn”. Trong khi gạo Thái Lan đã quá quen thuộc với người tiêu dùng châu Âu và thị trường 28 nước thuộc EU thì gạo Việt Nam mới đang dừng lại ở bước xây dựng hình ảnh.

Thêm vào đó, EU là Thị trường có nhu cầu về gạo cao cấp với yêu cầu rất khắt khe, từ chất lượng sản phẩm tới các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, uy tín của doanh nghiệp, quy trình sản xuất... Muốn xâm nhập được thị trường này, doanh nghiệp cần phải có những hiểu biết về thói quen và sở thích của người tiêu dùng cũng như nhu cầu của thị trường.

Theo GS Võ Tòng Xuân, thực trạng thị trường xuất khẩu gạo hiện nay cho thấy, Việt Nam phải nhìn lại định hướng phát triển xuất khẩu mặt hàng này. “Quyết định làm thương hiệu gạo Việt Nam đã có cả 2 năm rồi nhưng làm không được bởi Bộ NN&PTNT đưa ra dự án quá nhiều tiền trong khi các nước làm rất đơn giản. Dứt khoát Việt Nam phải làm lại chương trình lúa gạo, chọn ra vài giống đặc sản có đặc tính nổi trội về mùi vị, có năng suất tương đối để nông dân chấp nhận”, GS Võ Tòng Xuân bày tỏ.