- Hệ thống quản lý giao thông thông minh ở bang Goa, Ấn Độ
- Biển báo thông minh - Giải pháp tình thế cảnh báo tình trạng giao thông
- Cận cảnh biển điện tử thông minh có khả năng tự cảnh báo giao thông đang thí điểm ở Hà Nội
Hệ thống giao thông thông minh hợp tác là một công cụ hiệu quả giúp để tăng cường an toàn cho người tham gia giao thông |
Tích hợp hệ thống giao thông thông minh hợp tác
Các giải pháp công nghệ quản lý giao thông không ngừng phát triển, đáp ứng nhu cầu cụ thể của các thành phố và thúc đẩy toàn cầu hướng tới các hệ sinh thái giao thông kết nối và bền vững hơn. Những giải pháp này tác động cả ngắn hạn và dài hạn đến quy hoạch giao thông và đô thị, giúp các cơ quan quản lý đối phó với các sự kiện giao thông, xác định các xu hướng và mô hình cần thiết để hỗ trợ việc đi lại.
Các phương tiện được kết nối qua mạng IoT (Internet vạn vật) gọi là C-V2X (Cellular Vehicle-to-Everything). C-V2X là một nền tảng thống nhất giữa các phương tiện và hệ thống giao thông thông minh với nhau. C-V2X kết nối từ phương tiện đến phương tiện, phương tiện tới cơ sở hạ tầng, phương tiện tới người đi bộ (và kết nối phương tiện với mạng lưới. Bằng cách kết nối các phương tiện cá nhân và cho phép phát triển các hệ thống giao thông thông minh hợp tác (C-ITS) nhằm giảm tắc nghẽn và ô nhiễm, nền tảng này có tiềm năng chuyển đổi các dịch vụ thông tin và an toàn trên cao tốc và các tuyến đường trong các thành phố để tăng cường đảm bảo an toàn.
Để giải quyết thách thức về an toàn giao thông, các thành phố có thể áp dụng phương pháp tiếp cận 3 bước tận dụng công nghệ này. Bước đầu tiên liên quan đến việc số hóa cơ sở hạ tầng đường bộ hiện có bằng các công cụ như nền tảng đa năng học sâu Kapsch (DLVP). Với nền tảng này, ứng dụng phần mềm dưới dạng dịch vụ, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và thuật toán học máy để phân tích luồng video từ camera quan sát có sẵn, xác định người đi bộ, người đi xe đạp và các nguy cơ va chạm tiềm ẩn. Điều này cho phép tiếp cận chủ động với các dịch vụ an toàn và kết nối.
Sau khi dữ liệu được thu thập, bước thứ hai bao gồm việc phân tích dữ liệu bằng phần mềm phân tích lưu lượng truy cập để xác định các “điểm nóng” dễ xảy ra tai nạn, đo lường kết quả và xác thực các hành động. Nền tảng dữ liệu di động Kapsch (MDP) có thể cung cấp thông tin giúp đưa ra quyết định tốt hơn dựa trên việc sử dụng dữ liệu nâng cao, bổ sung cho các hệ thống quản lý giao thông hiện có, giúp các thành phố giải quyết các “điểm nóng” sự cố giao thông hiệu quả hơn.
Bước thứ ba là kết nối với người tham gia giao thông bằng công nghệ hệ thống giao thông thông minh hợp tác (C-ITS). Điều này liên quan đến việc thông báo cho người tham gia giao thông để giảm thiểu va chạm và tăng cường quản lý giao thông. Các thành phố có thể sử dụng C-ITS để liên lạc trực tiếp với các phương tiện, cung cấp thông tin theo thời gian thực về các mối nguy hiểm tiềm ẩn, phương tiện khẩn cấp hoặc tình trạng đường sá. Bằng cách tích hợp công nghệ này, các thành phố có thể tăng cường các biện pháp an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông, đặc biệt là các đối tượng dễ bị tổn thương như người đi bộ, đi xe đạp.
Ứng dụng thực tế tại các thành phố
Công ty Kapsch TrafficCom (Áo) đã triển khai công nghệ C-ITS trong một số dự án trên toàn cầu, giúp giao thông ở các thành phố trên nhiều châu lục trở nên an toàn hơn. Tại Salzburg, Áo, dự án Bike2CAV đã sử dụng cơ sở hạ tầng bên đường để phân tích video và liên lạc với các phương tiện được kết nối. Dự án nhằm tăng cường đảm bảo an toàn cho người đi xe đạp thông qua việc phát hiện các rủi ro, va chạm tiềm ẩn. Camera giao thông được trang bị phần mềm DLVP AI đã phân tích các tình huống giao thông để đưa ra cảnh báo trong thời gian chưa đầy một giây. Tương tự, tại Melbourne, Australia, một mô hình thí điểm hành lang kết nối và giao lộ thông minh có tên gọi Hệ sinh thái đa phương thức tích hợp Australia (AIMES) việc ứng dụng công nghệ C-ITS và DLVP để cải thiện an toàn đường bộ bằng cách cung cấp thông tin giao thông theo thời gian thực cho người lái xe, người đi xe đạp và cho cả người đi bộ.
Thành phố Columbus (bang Ohio, Mỹ) đã áp dụng cách tiếp cận toàn diện trong dự án môi trường phương tiện kết nối thông minh Columbus (CVE). Dự án triển khai 100 đơn vị bên đường, tích hợp thu thập dữ liệu và công nghệ kết nối phương tiện để cải thiện khả năng di chuyển, an toàn và hiệu quả trong mạng lưới giao thông. Điều này liên quan đến việc cung cấp thông tin theo thời gian thực cho người lái xe về tín hiệu giao thông, giới hạn tốc độ và cảnh báo tiềm ẩn, giảm nguy cơ tai nạn và tối ưu hóa luồng giao thông.
Kapsch TrafficCom đã tích cực tham gia vào nhiều sáng kiến C-ITS khác trên toàn cầu, nhằm thúc đẩy hệ thống giao thông thông minh trong các dự án như sáng kiến C-ROADS C-ITS của Áo và Tây Ban Nha, dự án NordicWay, hành lang H2M2 cho các tuyến cao tốc ở Anh hoặc gần đây nhất là ở Ireland, triển khai một dự án thí điểm C-ITS có tên là Hệ thống quản lý và thông minh mạng (NIMS) cho cơ sở hạ tầng giao thông Ireland (TII). Dự án này không chỉ quản lý giao thông trên đường cao tốc mà còn triển khai một lượng lớn thiết bị C-ITS để cung cấp các ứng dụng C-ITS trên mạng lưới đường cao tốc ở Ireland nhằm quản lý giao thông và tăng cường an toàn đường bộ.
Tương tự, tại Montreal, Canada, Kapsch TrafficCom cũng góp phần giải quyết vấn đề an toàn giao thông bằng cách triển khai bộ dịch vụ C-ITS hành lang kết nối được phối hợp với hệ thống phân tích video trên 19 giao lộ ở trung tâm thành phố. Bộ dịch vụ C-ITS sử dụng dữ liệu giao thông từ hệ thống camera có sẵn và các phương tiện được kết nối để cung cấp cho người lái xe thông báo theo thời gian thực về những người tham gia giao thông dễ bị tổn thương và cơ quan quản lý giao thông bằng các công cụ thống kê giao thông. Hệ thống ở Montreal nhằm mục đích phát hiện các sự cố, phân loại phương tiện, người đi bộ và người đi xe đạp, lái xe sai làn, tắc nghẽn và các tình huống tiềm ẩn nguy hiểm khác…
Để giải quyết vấn đề an toàn đường bộ đô thị đòi hỏi một cách tiếp cận nhiều mặt, kết hợp số hóa cơ sở hạ tầng, phân tích dữ liệu và kết nối hiệu quả với người tham gia giao thông. Việc thực hiện các biện pháp này có thể cải thiện đáng kể an toàn đường bộ, giảm tai nạn và tăng cường quản lý giao thông tổng thể ở khu vực đô thị.