Không nhân nhượng với tham vọng độc chiếm Biển Đông

ANTĐ - Nhìn từ góc độ pháp lý, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép và những hành động hung hăng, ngang ngược đối với các tàu Việt Nam là việc làm vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế, vi phạm thỏa thuận giải quyết các vấn đề trên Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (DOC).

Bản đồ vị trí giàn khoan Haiyang Shiyou 981 của Trung Quốc đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam

Xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam 

Điều 12 Luật Biển Việt Nam quy định: “Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam và phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam”.

Điều này cho thấy, việc Trung Quốc huy động cao nhất tàu các loại, trong đó có nhiều tàu quân sự và các tàu vận tải, tàu cá cùng hàng chục tốp máy bay hoạt động trên khu vực vùng biển Việt Nam là đang vi phạm nghiêm trọng những quy định trong Luật Biển Việt Nam. 

Về nguyên tắc, các phương tiện bay của nước ngoài không được vào vùng trời trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo Điều ước quốc tế mà Nhà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên. Việc các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam ngăn chặn việc xâm phạm trái phép của giàn khoan Haiyang Shiyou 981 thể hiện thái độ kiên quyết thực hiện chủ quyền của Việt Nam một cách tuyệt đối, đầy đủ, toàn vẹn trong lãnh hải của mình. Bởi, nội thuỷ được coi là bộ phận nằm trong đất liền mà Việt Nam sở hữu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Luật sư Nguyễn Trung Kiên - Đoàn Luật sư Hà Nội khẳng định, nơi giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc neo đậu, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Theo Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, việc khai thác tài nguyên trong vùng biển có chủ quyền phải được sự cho phép của nước chủ nhà.

Điều 76 của Công ước Luật Biển quy định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính toán chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi mép ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn”. Như vậy, mỗi quốc gia ven bờ, trong đó có Việt Nam, không chỉ có quyền tài phán đối với nội thủy và lãnh hải của mình mà còn đối với vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa với bề rộng tối thiểu 200 hải lý tính từ đường cơ sở. 

Tàu Trung Quốc phun vòi rồng tấn công tàu Việt Nam đang thi hành nhiệm vụ
(Ảnh do Cảnh sát biển Việt Nam cung cấp)

Vi phạm luật pháp quốc tế và Tuyên bố DOC 

Việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của UNCLOS 1982 mà Trung Quốc đã ký. Do vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể đưa vụ việc này ra tòa án trọng tài quốc tế về Luật Biển của Liên hợp quốc. Việc giàn khoan của Trung Quốc đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam chẳng khác nào người lạ bỗng dưng mang đồ của mình đặt sang nhà hàng xóm để “xí chỗ”.

Không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế, Trung Quốc còn đi ngược lại hoàn toàn với Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc, với các nội dung chính như: cam kết tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không chiếm đóng mới, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình…

Trong buổi làm việc mới đây với phóng viên Báo ANTĐ, PGS. TS Nguyễn Bá Diến (Giám đốc Trung tâm Luật biển và hàng hải quốc tế, Chủ nhiệm bộ môn Luật Quốc tế - ĐH Quốc gia Hà Nội) khẳng định, bất kỳ một dân tộc có lòng tự trọng nào sẽ không bao giờ cho phép nhân nhượng trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ, bởi nó là phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc. Chúng ta phải nhận diện rõ và cảnh giác với tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc cũng như có chiến lược một cách bài bản và toàn diện về mọi mặt nhằm nâng cao tiềm lực và khả năng tự vệ. Đặc biệt, Nhà nước cần có sự đầu tư thích đáng cho việc đấu tranh về mặt pháp lý, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế và độc lập chủ quyền quốc gia.

Về kinh nghiệm giải quyết tranh chấp lãnh thổ và biển đảo, một số biện pháp đã được các nước áp dụng như song phương bằng đàm phán hòa bình, kết hợp cả đa phương trong quan hệ hợp tác và hòa bình, phương thức cuối cùng là dùng vũ lực. Tuy vậy, việc lựa chọn phương pháp đấu tranh có hiệu quả phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề khác nhau. Song quan điểm của Việt Nam trước sau như một là không thể chấp nhận và kiên quyết phản đối việc làm này của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc rút hết giàn khoan Haiyang Shiyou 981 và các tàu hộ tống ra khỏi khu vực và cùng đàm phán để xử lý những bất đồng xung quanh vấn đề này.

Trung Quốc đang chiếm vùng biển của Việt Nam

Không nhân nhượng với tham vọng độc chiếm Biển Đông ảnh 3

“Việt Nam đã thiết lập đường cơ sở và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình theo luật pháp quốc tế. Điều đó có nghĩa chỉ có Việt Nam và chỉ có Việt Nam mới có quyền chủ quyền đối với vùng biển này và các tài nguyên trong vùng biển này cũng như trên thềm lục địa này. Hiện giờ Trung Quốc đã xâm phạm vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam với một giàn khoan lớn được thiết kế để khai thác tài nguyên là tài sản thuộc chủ quyền của Việt Nam khi không được phép của Việt Nam -  không phải của ai khác, một cách bất thình lình. Trung Quốc không chỉ mang vào giàn khoan mà còn hàng chục tàu khác, đó là số lượng tàu rất lớn. Điều đó có nghĩa  Trung Quốc đang chiếm vùng biển thuộc về Việt Nam”. 

GS. Carl Thayer (Chuyên gia về Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Australia)

Bất chấp cả công ước quốc tế

Không nhân nhượng với tham vọng độc chiếm Biển Đông ảnh 4

Không thể chấp nhận được một hành vi dùng bạo lực, cậy thế của mình để làm những việc bất chấp công ước Quốc tế, cũng như chủ quyền của một quốc gia độc lập khác. Theo tôi, đây là hành vi hết sức nguy hiểm, đe dọa trực tiếp đến cách ứng xử trên Biển Đông.

GS.TS. Vũ Minh Giang (Chủ tịch Hội đồng khoa học đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội)

Vi phạm nghiêm trọng các thỏa thuận song phương

Không nhân nhượng với tham vọng độc chiếm Biển Đông ảnh 5
“Về mặt nguyên tắc Trung Quốc không được phép đưa giàn khoan và đưa các lực lượng hùng hậu (có hải quân) vào để hỗ trợ cho một việc làm vi phạm luật pháp quốc tế. Điều này rất nghiêm trọng, nó vi phạm 2 văn kiện quan trọng về cấp nhà nước và chính phủ giữa hai nước, đó là Tuyên bố chung tại Bắc Kinh tháng 6-2013 và Tuyên bố chung tại Hà Nội giữa Thủ tướng hai nước, tháng 10-2013”.
TS. Nguyễn Ngọc Trường (Chủ  nhiệm Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và phát triển Quan hệ quốc tế)