Thư viện “công cộng” của một người thầy

(ANTĐ) -Cái thư viện của ông thật quen mà thật lạ. Quen là bởi nó cũng như bao thư viện khác, người đến đọc là bất kỳ ai, đó có thể là nhà văn, một nhà báo, một vị hòa thượng, một người nghiên cứu, hoặc các bạn học sinh, sinh viên. Lạ là thư viện không hề có thủ thư và ông “Giám đốc” thư viện ấy là một người thầy - thầy Phạm Đức Dương...

Thư viện “công cộng” của một người thầy

(ANTĐ) -Cái thư viện của ông thật quen mà thật lạ. Quen là bởi nó cũng như bao thư viện khác, người đến đọc là bất kỳ ai, đó có thể là nhà văn, một nhà báo, một vị hòa thượng, một người nghiên cứu, hoặc các bạn học sinh, sinh viên. Lạ là thư viện không hề có thủ thư và ông “Giám đốc” thư viện ấy là một người thầy - thầy Phạm Đức Dương...

Thư viện đặc biệt

Tôi thực hiện loạt bài viết về văn hóa cần phải xin ý kiến của Giáo sư Phạm Đức Dương bởi thầy là người đã có mấy chục năm nghiên cứu về văn hóa và trong ông đầy ắp những kiến thức mà tôi cần. Biết thầy rất bận nên tôi  gọi điện trước. Nghe điện thoại là giọng nói miền Trung gần gũi khiến cho tôi có cảm giác thật yên tâm, tôi đoán đó là vợ của Giáo sư. Cô nói: “Sao con không gọi sớm, thầy đi dạy rồi, không có nhà, con có đọc sách thì cứ qua, hoặc nếu cần gặp thầy thì mai con gọi lại cho thầy sau nhé!”. Mặc dù tôi không phải là một người quen biết của gia đình Giáo sư,  cũng không phải là học sinh của thầy, đây là lần đầu tiên tôi gọi điện đến nhà thầy, nhưng qua cách trả lời điện thoại của cô tôi có thể đoán được nhà thầy luôn mở cửa....

Giáo sư Phạm Đức Dương và thư viện sách dành cho những học trò nghèo
Giáo sư Phạm Đức Dương và thư viện sách dành cho những học trò nghèo

Hôm tôi tìm đến nhà Giáo sư Phạm Đức Dương, hỏi thăm địa chỉ, từ xa người ta đã chỉ tường tận cho tôi đường đến nhà thầy. Quả vậy, cửa nhà thầy lúc nào cũng mở, cánh cổng chỉ khép hờ. Sau tiếng chuông cửa, có giọng nói từ trong nhà vọng ra: “Con cứ dắt xe vào đi...”. Bước lên những bậc cầu thang hẹp là một căn gác nhỏ, tôi thực sự bất ngờ về “gia tài” sách của thầy, sách được xếp quanh nhà, sách ken chật kín như những bức tường, đâu đâu cũng thấy sách, xung quanh những chiếc giá sách, những chồng sách được xếp một cách có kỷ luật là  bàn uống nước và  bàn làm việc.

Thầy ngồi đó, dáng cao đậm, mái tóc bạc trắng và khuôn mặt vô cùng đôn hậu, giọng nói thật ấm áp. Tôi đề xuất ý kiến của mình với thầy, thầy hồ hởi đón nhận và câu chuyện giữa tôi với thầy đã không còn là một buổi làm việc mà nó được kéo dài như không thể kết thúc. Có lẽ tôi không phải là người “học trò” duy nhất được thầy đón tiếp như vậy. Căn gác này, cái thư viện nhỏ này, tấm lòng của người thầy đã bao năm nay quá quen với việc tiếp những người khách lạ như tôi.

Bao nhiêu năm tích cóp, bao nhiêu chuyến đi công tác nước ngoài, từ Nga, từ Mỹ, hay từ bất kỳ nước nào, hành lý của thầy mang về cũng là những cuốn sách. Góp gió thành bão, kho sách của thầy bây giờ đã có hơn 7.000 đầu sách các loại từ cổ chí kim, cả sách tiếng nước ngoài lẫn sách tiếng Việt. Song trong gia tài ấy chủ yếu là sách về văn hóa, về ngôn ngữ và đặc biệt có một “hệ thống” những luận văn, luận án tiến sĩ để cho các nghiên cứu sinh, sinh viên tham khảo.

Câu chuyện của những học trò nghèo

Mong muốn của thầy là được mở “cái kho” của mình ra cho học sinh nghèo đến đọc. “Học sinh nghèo thường hiếu học mà lại không có tiền mua sách. Hơn nữa cũng có những em đến thư viện này không phải chỉ vì sách mà là để tiếp xúc với thầy, để xin ý kiến, để nhờ hướng dẫn về một vấn đề nào đó mà họ cần, các em muốn được thầy gợi mở cho phương pháp nghiên cứu, học tập, muốn được thầy cung cấp cho một tầm nhìn mới. Còn với thầy, thầy cũng có nhu cầu được tiếp xúc với học sinh sinh viên” - thầy Phạm Đức Dương đã giải thích một cách đơn giản về cái lẽ ông mang hết “của nả” của mình cho trò là như vậy.

Đấy là một lý do nhưng cũng rất có thể các học trò của thầy đến với thư viện để tìm sự đồng cảm vì họ biết rằng trước đây thầy Phạm Đức Dương cũng là một người học trò nghèo của làng Đông Xá, Hà Tĩnh. Sinh ra trong một gia đình nghèo, mẹ phải đi làm thuê, làm mướn cho các ông chủ, các em phải đi ở, ông bố thì tha phương cầu thực.  Để đến bây giờ, dấu ấn, ảnh hưởng của Nho giáo, ảnh hưởng của một người làng Đông Xá, làng khoa bảng, chỉ còn lại trong cậu học trò nghèo một khát vọng được đi học, và trong lòng người mẹ nghèo một khát vọng là nuôi cho con học được chữ, không phải khổ như mình.

Câu chuyện đi học của thầy Dương giờ kể lại như một câu chuyện cổ tích. Ngày xưa, thầy đi học không có một bữa cơm, mẹ đi dệt cho người ta, xin nước rác về nuôi lợn, bà nấu ăn thương tình giấu bà chủ vứt vào thùng nước rác một nắm cơm vắt, để đến tối về, mẹ vớt nắm cơm vắt ấy ra nấu lại cho con ăn.

Đi học không có tiền để mua giấy trắng, mẹ thầy thường phải mua giấy loại, đóng lại để viết, viết xong ngâm nước gạo cho phai đi để làm giấy nháp. Đêm về không có đèn dầu học bài nên cậu học trò nghèo ấy đã học bằng cách chỉ nghe bọn con nhà giàu đọc, đứng ngoài cổng học theo. Chính cái nghèo, cái khổ đã thôi thúc cậu học trò nghèo Phạm Đức Dương phải học và cũng có lẽ vì thế mà đến bây giờ khi đã trở thành một người thầy, hơn ai hết thầy thấu hiểu được giá trị của người nghèo đi học.

Cho dù từ khi mở cái thư viện nhỏ này, gia đình thầy cũng thêm vướng bận,  cũng làm đảo lộn sinh hoạt của gia đình, nhưng rồi mọi người trong nhà đều biết đó là nguyện vọng của thầy nên ai cũng đồng lòng. Dần rồi cũng quen, các em đến cứ tự lên gác ai muốn đọc thì đọc, miễn là đọc xong phải để đúng chỗ quy định. Sách thư viện thầy Dương cũng đánh số theo thứ tự vị trí, chỗ nào chưa biết thì hỏi thầy. Căn gác nhỏ ấy lúc nào cũng đông vui đầm ấm, nó không giống như một thư viện thông thường mà giống như không khí trong một gia đình. Học trò đọc sách, lúc thư giãn lại trò chuyện với thầy, tâm sự với cô, đến ngay cả bữa cơm nhà thầy cũng nhiều khi có khách.

Vinh quang của một người thầy

Thầy Dương nói, thầy rất thích ý nói của một nhà văn Nga rằng cái thiêng liêng và vinh quang của một người thầy giáo là cung cấp cho học trò những kiến thức để vào đời và khi vào đời thì những người học trò bằng những kiến thức ấy sẽ tung hoành trong cuộc sống để làm nên sự nghiệp. Và cũng chính bằng cách đó, mà người học trò đã làm cho người thầy được hóa thân vào cuộc sống. Người thầy có bao nhiêu thế hệ học trò thì người thầy được hóa thân bấy nhiêu lần vào sự nghiệp của học trò. Nên nếu nhận thức được vinh quang ấy thì người thầy sẽ miệt mài và không bao giờ mệt mỏi về sự nghiệp mà mình theo đuổi.

Thầy cũng nói rằng làm người thầy thì đầu tiên phải có chữ trí, chữ tâm, biểu hiện cho trí tuệ và tấm lòng. Nếu hội đủ hai thứ đó thì mới có thể làm một người thầy tốt. Làm thầy là một nghề không phải chỉ làm 10 năm, 15 năm mà làm cả đời. Vậy nếu chỉ có cái tâm không thôi mà không có trí tuệ thì cũng không làm thầy được, nếu chỉ có trí tuệ mà không có tâm thì cũng không làm thầy được. Khi người thầy giáo giảng dạy cho học trò không chỉ dạy về kiến thức mà còn dạy về chính bản thân cuộc đời của mình, nên người thầy phải tự rèn luyện cho xứng đáng với chữ ... thầy.

Cũng có lẽ vì thế mà thầy làm mọi việc không phải để những người học trò biết ơn mình, thầy mở kho sách cho học trò đến đọc cũng không cần được trả ơn, thầy cũng không bao giờ trách học trò quên ơn thầy. Những kiến thức, ý tưởng của thầy đã theo các thế hệ học trò hóa thân vào cuộc sống.

Cảm ơn thầy, cảm ơn nghề báo đã cho tôi được gặp một vị Giáo sư - một người thầy - một nhân cách.

Đinh Kiều Nguyên