Quan hệ tình cảm với người đã có vợ, hoặc chồng có thể bị phạt tù tới 3 năm

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Mạng xã hội đang xôn xao về sự việc một cô ca sỹ trẻ có quan hệ khá thân thiết với một đại gia hơn tới vài chục tuổi đang có vợ. Tuy chưa biết thực hư câu chuyện này ra sao song nhiều người đặt câu hỏi: Theo quy định hiện hành, quan hệ tình cảm với người có vợ (hoặc có chồng) sẽ bị xử lý thế nào?

Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Nguyễn Thị Thu - Đoàn Luật sư Hà Nội cho biết, Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định, phạt tiền từ 3-5 triệu đồng đối với người có một trong các hành vi:

Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.

Nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, cá nhân có hành vi ngoại tình có thể bị xử lý hình sự về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.

Ngoại tình với người đã có vợ có thể bị phạt tù tới 3 năm (ảnh minh họa)

Ngoại tình với người đã có vợ có thể bị phạt tù tới 3 năm (ảnh minh họa)

Điều 182 BLHS 2015 sửa đổi quy định, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp: Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm.

Tùy vào tình tiết định khung mà người bị kết tội sẽ phải nhận mức án thấp nhất là cải tạo không giam giữ đến một năm và nặng nhất là phạt tù đến 3 năm - Luật sư Thu nhấn mạnh.

Như vậy, đối tượng phạm tội ngoại tình là người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; Người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.

Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...

Tuy vậy, theo Luật sư Thu, người thực hiện hành vi chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp: Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Trường hợp nếu xác định những người trong cuộc chỉ có quan hệ tình cảm chứ không chung sống như vợ chồng, thì khó có căn cứ xử phạt hoặc xử lý hình sự với những người này.

Mặt khác, nếu cá nhân đăng tải thông tin sai sự thật trên mạng xã hội có thể bị xử phạt hành chính, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vu khống hoặc Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông - Luật sư Thu nhận định.