- Làm gì khi mua phải xe gian?
- Thủ tục xin trợ cấp khi thất nghiệp
- Chủ tài khoản không di chúc, rút tiền tiết kiệm thế nào?

Nhiều trẻ bị bỏ rơi đang được nuôi dưỡng tại các trung tâm bảo trợ xã hội
Làm rõ những thắc mắc nêu trên, luật sư Nguyễn Thị Thu - Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng, theo Luật Hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, người phát hiện trẻ bị bỏ rơi có trách nhiệm bảo vệ trẻ và thông báo ngay cho UBND hoặc Công an cấp xã nơi trẻ bị bỏ rơi.
Trường hợp trẻ bị bỏ rơi tại cơ sở y tế thì Thủ trưởng cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo. Ngay sau khi nhận được thông báo, Chủ tịch UBND hoặc Trưởng công an cấp xã có trách nhiệm tổ chức lập biên bản về việc trẻ bị bỏ rơi; UBND cấp xã có trách nhiệm giao trẻ cho cá nhân hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng theo quy định pháp luật.
Sau đó, UBND cấp xã tiến hành niêm yết tại trụ sở UBND trong 7 ngày liên tục về việc trẻ bị bỏ rơi hoặc thông báo liên tục trên hệ thống loa truyền thanh. Hết thời hạn quy định, nếu không có thông tin về cha, mẹ đẻ của trẻ, UBND cấp xã thông báo cho cá nhân hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ để tiến hành đăng ký khai sinh cho trẻ. Cá nhân hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em. Sau khi khai sinh cho trẻ, nếu không có gia đình nào nhận trẻ làm con nuôi, trẻ sẽ được chuyển về các trung tâm bảo trợ xã hội.
Cũng theo luật sư Nguyễn Thị Thu, thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ được thực hiện theo quy định của Luật Hộ tịch. Trường hợp không có cơ sở để xác định ngày, tháng, năm sinh và nơi sinh của trẻ thì lấy ngày, tháng phát hiện trẻ bị bỏ rơi là ngày, tháng sinh; nơi sinh là nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi. Phần khai về cha, mẹ và dân tộc của trẻ trong giấy khai sinh và Sổ hộ tịch để trống; trong sổ hộ tịch ghi rõ “trẻ bị bỏ rơi”.
Pháp luật hiện hành cũng quy định rõ, nếu người phát hiện trẻ bị bỏ rơi muốn nhận đứa bé làm con nuôi thì bản thân họ phải đáp ứng đủ các điều kiện: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có tư cách đạo đức tốt; Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em… Về thủ tục nhận nuôi con nuôi, có thể đăng ký tại UBND cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi mình thường trú.