- Hết thời hạn tạm giam, trong khi tòa yêu cầu điều tra bổ sung
- Trẻ em có được phép bán tài sản cho người lớn?
Luật sư Nguyễn Đào Tơ (Trưởng VPLS Hoàng Huy; Địa chỉ: Số 52, ngõ 145/93/2 đường Cổ Nhuế, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội)
Trả lời:
Hợp đồng tặng, cho quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng, cho giao quyền sử dụng đất cho bên được tặng, cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng, cho đồng ý nhận theo quy định của pháp luật về đất đai. Theo quy định tại Điều 459 - Bộ luật Dân sự 2015, việc tặng, cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.
Hợp đồng tặng, cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng, cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Trường hợp đã tặng, cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng, cho, người tặng, cho không thể đòi lại. Theo thông tin bạn cung cấp thì bố mẹ chồng đã cho vợ chồng bạn quyền sử dụng đất và hiện nay đã làm xong thủ tục sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, bố mẹ chồng bạn không thể đòi lại được diện tích đất đã cho.

Còn đối với vấn đề thừa kế, theo Điều 655 - Bộ luật Dân sự, trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Như vậy, bạn vẫn là vợ hợp pháp của chồng bạn và thuộc hàng thừa kế thứ nhất (gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết…). Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau, bạn có quyền thừa kế phần tài sản của chồng bạn để lại bằng phần của những người thừa kế cùng hàng.