- Hàng loạt người có nguy cơ sập bẫy "tín dụng đen" do khó khăn bởi dịch Covid-19
- Bảo vệ cửa hàng làm mất xe, ai phải bồi thường?
- Điều kiện để xét xử rút gọn hàng loạt vụ án liên quan đến phòng chống dịch Covid-19?
Luật sư trả lời:
Luật sư Nguyễn Thị Thu (Đoàn Luật sư Hà Nội)
Theo Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được tòa án xác định. Như vậy, nếu bạn cho rằng bé không phải là con bạn thì phải có tài liệu, chứng cứ để yêu cầu tòa án xác định.
Về nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc con, nếu đứa trẻ được tòa án xác định không phải là con bạn thì về nguyên tắc bạn không có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc đứa trẻ trong thời gian trước đó. Song việc bạn có thể yêu cầu vợ trả lại cho bạn số tiền bạn đã bỏ ra để nuôi đứa trẻ hay không thì Luật Hôn nhân và Gia đình chưa đề cập.
Theo khoản 1 điều 275 Bộ luật Dân sự 2015, nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ: Hợp đồng; hành vi pháp lý đơn phương; thực hiện công việc không có ủy quyền; chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; căn cứ khác do pháp luật quy định. Dù việc lừa dối của vợ bạn về đứa trẻ rất đáng lên án song hành vi này không thuộc một trong các căn cứ trên. Do đó, vợ bạn không có nghĩa vụ phải hoàn trả cho bạn số tiền bạn đã bỏ ra để nuôi đứa trẻ.