- Xem lịch âm - Lịch vạn sự hôm nay ngày 29 tháng 9 năm 2025 tốt hay xấu?
- Xem lịch âm - Lịch vạn sự hôm nay ngày 28 tháng 9 năm 2025 tốt hay xấu?
- Xem lịch âm - Lịch vạn sự hôm nay ngày 27 tháng 9 năm 2025 tốt hay xấu?
![]() |
Thứ 3 ngày 30 tháng 9 năm 2025
Năm Ất Tỵ
THÁNG TÁM (thiếu)
Tháng Ất Dậu
Ngày Nhâm Dần
Giờ Canh Tý
Ngũ hành: Kim - Sao: Thất - Trực: Chấp
Thu Phân: 23/9/2025 (02/8 Âm Lịch) lúc 01g20’
Hàn Lộ: 08/10/2025 (17/8 Âm Lịch) lúc 07g42'
Vũng Tàu: Nước lớn 03g28' - Nước ròng 13g04'
Giờ Hoàng đạo: Tý (23g-01g), Sửu (01g-03g), Thìn (07g-09g), Tỵ (09g-11g), Mùi (13g-15g), Tuất (19g-21g)
Giờ hoàng đạo là giờ tốt theo phong tục.
Theo phong tục của người dân Việt Nam thì có hai loại giờ: giờ hoàng đạo và giờ hắc đạo. Giờ hoàng đạo nghĩa là giờ tốt, có thể làm được nhiều việc trọng đại như: ăn cưới, đón cô dâu, nhập học, làm tang lễ, an táng, thành hôn, giao dịch, buôn bán, giao tiếp... Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng giờ hoàng đạo được. Theo dân gian, trong mỗi ngày thì có 6 giờ hoàng đạo và 6 giờ hắc đạo. Vì vậy, giờ hoàng đạo và giờ hắc đạo được chi phối bằng nhau trong mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm.
Người Việt Nam quan niệm rằng, trên trời sẽ có 28 vì sao chiếu mệnh là nhị thập bát tú. Trong đó có hai loại sao là sao tốt và sao xấu. Nếu giờ đó thuộc cung của sao Tốt thì có nghĩa là giờ tốt, nếu giờ đó phạm phải sao xấu sẽ giờ xấu. Tùy theo mức độ, tính chất của sao mà tốt trong mỗi lĩnh vực. Ví dụ: Sao Bích tốt trong cưới hỏi, sao Lâu tốt trong xây dựng...
Theo phong tục cổ truyền Việt Nam, khi khởi đầu một việc gì, ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt còn phải chọn giờ tốt. Xuất hành, khởi công xây dựng, khai trương cửa hàng, bắt đầu đi đón dâu, đưa dâu, bắt đầu lễ đưa ma, hạ huyệt, khánh thành công trình... đều phải chọn giờ hoàng đạo.
Nhưng lưu ý là có những trường hợp đặc biệt không thể máy móc chọn giờ tốt được. Ví dụ sắp đến giờ tàu, xe xuất phát, nếu đợi giờ tốt có khi nhỡ kế hoạch; hoặc có giờ tốt, ngày tốt, nhưng thời tiết rất xấu, chưa khởi công được... Nếu cứ quá câu nệ nhiều khi lại hỏng việc. Và nếu làm như thế, nó trở thành mê tín dị đoan, hậu quả khó lường.
Ngày hôm nay thuận lợi: Ký kết, khai trương, cầu tài, về nhà mới, an táng.
Cung hoàng đạo: Thiên Bình – Cái cân (23/9 – 22/10): Đối với 12 cung hoàng đạo, Thiên Bình sống tình cảm, yêu hòa bình và công bằng. Họ có khả năng hợp tác và giao tiếp tốt, và thường sử dụng trí khôn và sự khéo léo để tránh xung đột và duy trì hòa bình trong các mối quan hệ.
Thiên Bình thích được yêu và tỏ tình. Họ dành tình cảm chân thành và trọn vẹn cho người mình yêu. Thiên Bình mơ ước có một tình yêu lãng mạn như trong truyện cổ tích. Được xem là chòm sao “đào hoa” nhất trong 12 chòm sao cung hoàng đạo.
Thiên Bình thường sẽ phù hợp những nghề liên quan đến nghệ thuật như nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên. Họ cũng có thể làm việc trong lĩnh vực pháp luật, kinh doanh, giám sát và nhiều ngành nghề khác.
* Những câu nói, ngạn ngữ, châm ngôn hay, thú vị của ngày hôm nay:
“ Trong chuyển đổi số thì chiến thắng thuộc về ai dám nghĩ, dám làm và tạo ra sự khác biệt” (Bộ Thông tin và Truyền thông)
“Đọc sách cho tâm trí cũng quan trọng như tập thể dục cho cơ thể” (Joseph Addison)
“Sự kiên nhẫn là yếu tố then chốt của thành công” (Bill Gates)
* Ngày này năm xưa:
- Từ ngày 30/9/1974 đến ngày 8/10/1974 Hội nghị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp tại Hà Nội để duyệt kế hoạch tác chiến chiến lược 1975. Hội nghị nhất trí đánh giá tình hình miền Nam như sau: Quân Ngụy ngày càng suy yếu. Lực lượng ta mạnh hơn hẳn địch ở miền Nam. Mỹ gặp khó khăn trong nước và thế giới. Ta tạo được một thế liên hoàn, đã tăng cường được lực lượng và dự trù vật chất. Phong trào đòi hoà bình, dân sinh, dân chủ, độc lập dân tộc, đòi lật đổ Thiệu lên cao. Hội nghị rút ra kết luận: "Mỹ đã rút khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy lại vào miền Nam, và dù chúng có thể can thiệp như thế nào đi chăng nữa cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn". Hội nghị nhất trí thông qua dự thảo của Bộ Tổng tham mưu chọn chiến trường Tây Nguyên là hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp năm 1975.
- Lý Chính Thắng tên thật là Nguyễn Đức Huỳnh, sinh năm 1917, quê ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông vào hoạt động cách mạng ở Nam bộ, tham gia Thành uỷ Sài Gòn - Chợ lớn và gây dựng cơ sở Đảng ở khu vực Đakao.
Tháng 3/1945, ông ra Bắc để xin chỉ thị của Trung ương Đảng, sau đó lại trở về Nam, mang theo nghị quyết về khởi nghĩa vũ trang cho Xứ uỷ Nam Kỳ.
Đầu năm 1946, ông được nhân dân thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn bầu vào Quốc hội khoá I, sau ngày Nam bộ kháng chiến, ông hoạt động trong ngành giao thông liên lạc tại vùng Sài Gòn bị giặc Pháp chiếm đóng. Giặc bắt, tra tấn cực hình, ông không khai báo, và đã mất tại bệnh viện Chợ Rẫy ngày 30/9/1946.
Năm 1949, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh truy tặng Lý Chính Thắng Huân chương Độc lập hạng Nhì "Vì đã lập nhiều thành tích oanh liệt và hy sinh anh dũng".
- Nhà sử học Văn Tân thật là Trần Đức Lức sinh năm 1913 quê ở Hà Tây, qua đời ngày 30/9/1988 tại thủ đô Hà Nội.
Ông tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1930 bằng việc viết báo, viết sách.
Là một nhà nghiên cứu văn học, sử học, Văn Tân để lại một số tác phẩm: "Vượt ngục", "Từ điển Trung - Việt", "Văn học trào phúng Việt Nam", "Từ điển tiếng Việt".
* Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát sinh năm 1913 tại huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, qua đời ngày 30-9-1989.
Năm 1933, ông bắt đầu học khoa kiến trúc sư trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội. Sau 5 năm học tập, ông đỗ thủ khoa và trở về Sài Gòn làm việc. Ông có biệt tài tổ chức không gian và khéo léo khai thác những tinh hoa của di sản kiến trúc truyền thống trong các thiết kế của mình.
Từ trước Cách mạng Tháng Tám, ông đã tham gia các hoạt động yêu nước chống Pháp - Nhật. Tháng 8-1945, tham gia chính quyền ở Sài Gòn. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền ở Nam bộ và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Sau Hội nghi Giơnevơ, ông được Đảng phân công hoạt động ở nội thành Sài Gòn, được bổ sung vào Thành uỷ. Năm 1959, ông ra vùng giải phóng, phụ trách công tác vận động trí thức, tư sản. Cuối năm 1960 ông được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Tháng 6-1969, ông được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam.
Từ năm 1976 đến khi qua đời, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát đã giữ chức vụ: Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ cách mạng có nhiều cống hiến cho đất nước. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát đã được thưởng nhiều Huân chương cao quý và Giải thưởng Hồ Chí Minh.