Trần “room” ngoại làm khó các ngân hàng khi tìm nhà đầu tư chiến lược

0:00 / 0:00
0:00
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Quy định về mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại Việt Nam đang làm khó cơ hội tìm kiếm cổ đông chiến lược của các ngân hàng thương mại.

Vốn ngoại tại ngân hàng còn khiêm tốn

Các chuyên gia Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) hiện đang dự thảo báo cáo “Nghiên cứu tính cần thiết của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cố phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các tổ chức tín dụng”.

Theo các chuyên gia, thời gian qua, nhu cầu tăng vốn để thực hiện tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng nước ta là rất lớn. Kể từ ngày 01/01/2020, khi chính thức triển khai Thông tư 41/2006/TT-NHNN quy định chi tiết về hệ số an toàn vốn CAR theo tiêu chuẩn Basel II thì áp lực tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại ngày một gia tăng.

Để tăng vốn, nhiều ngân hàng đã lên phương án phát hành cổ phiếu, giao dịch trên sàn chứng khoán; Nhiều ngân hàng tìm kiếm, đàm phán với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, hoặc nâng tỷ lệ vốn bán cho nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Nhiều ngân hàng đã thành công trong việc gọi vốn từ nhà đầu tư nước ngoài, năng lực tài chính nâng lên, tạo cơ hội để đổi mới đầu tư hạ tầng công nghệ, tăng cường thanh khoản, quản trị rủi ro sau khi hoàn tất tái cơ cấu và tiến hành niêm yết trên sàn chứng khoán...

Có thể kể đến một số ngân hàng thương mại cổ phần đã và đang tìm kiếm tốt cơ hội tăng vốn chủ sở hữu từ các cổ đông nước ngoài như: VietCapitalBank, NamABank, OCB, VIB, ACB, Techcombank, VPBank…

Nhiều ngân hàng Việt Nam được các đối tác nước ngoài rất quan tâm

Nhiều ngân hàng Việt Nam được các đối tác nước ngoài rất quan tâm

Một số ngân hàng khác cũng đang trong quá trình tìm kiếm, lựa chọn, đàm phán là dấu hiệu hết sức tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít ngân hàng vẫn còn nguyên “room” ngoại, chưa được các nhà đầu tư nước ngoài để ý tới.

Từ năm 2017 đến năm 2020, số lượng cổ đông nước ngoài tại 16 ngân hàng thương mại đã tăng từ 42 tổ chức lên xấp xỉ 90 tổ chức. Tuy nhiên nếu so với con số 31 ngân hàng thương mại đang hiện diện ở nước ta thì con số này còn rất khiêm tốn.

Cơ chế “room” ngoại làm khó ngân hàng

Theo nhiều ngân hàng thương mại, hiện nay, việc tìm kiếm, lựa chọn các đối tác chiến lược đã khó, nhưng khi đàm phán để đi đến kết quả chung cuộc, thì vướng mắc lớn nhất tập trung vào tỷ lệ vốn chủ sở hữu.

Nghị định số 01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài không quá 5% vốn điều lệ đối với cá nhân nước ngoài; không quá 15% vốn điều lệ đối với tổ chức nước ngoài; không quá 20% vốn điều lệ đối với nhà đầu tư chiến lược; Nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan không quá 20% vốn điều lệ.

Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi của tổ chức tín dụng Việt Nam sang cổ phiếu phải đảm bảo tỷ lệ sở hữu cổ phần như trên.

Trong buổi làm việc mới đây giữa các chuyên gia của CIEM với Hiệp hội Ngân hàng, các chuyên gia và nhiều ngân hàng cho rằng dường như tỷ lệ sở hữu vốn trên đang làm khó cơ hội tìm kiếm cổ đông chiến lược của các ngân hàng thương mại.

Do đó, các chuyên gia đề xuất kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước: Cân nhắc cách tiếp cận mở việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại, về phát triển fintech; cập nhật quan điểm về mức độ tham gia của nhà đầu tư nước ngoai; cải thiện khung pháp lý để bảo đảm cạnh tranh bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính; đối thoại cởi mở hơn với cộng đồng doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến cơ cấu sở hữu tại các ngân hàng thương mại.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, để các ngân hàng tiếp cận các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng, thì vấn đề hoàn thiện khung pháp lý theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, ổn định lâu dài, nhất quán là điều rất cần thiết.

Theo đó, việc quy định tỷ lệ ở hữu cổ phần của cổ đông nước ngoài cần được phân loại theo nhóm, có thể nới room tùy theo đánh giá xếp loại của Ngân hàng Nhà nước. Chẳng hạn, ngân hàng thương mại đã hoàn thành Basel II, đang tiếp tục nâng cao Basel III có thể nâng tỷ lệ góp vốn cổ đông nước ngoài lên cao hơn tỷ lệ 30%.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quốc Hùng, việc xem xét tăng tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết, song phải đảm bảo hài hòa lợi ích, nhu cầu của các nhà đầu tư với vai trò quản lý nhà nước. Chính sách rõ ràng, nhất quán ngay từ đầu sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các ngân hàng thương mại đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, hội nhập.