Xe buýt thân thiện môi trường: Cần nhưng phải có lộ trình đầu tư phù hợp

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Tại 5 thành phố lớn trên cả nước, nhu cầu đầu tư, thay thế phương tiện buýt giai đoạn 2022-2025 ước khoảng 3000-3.800 phương tiện và giai đoạn 2026-2030 ước khoảng 3.500-3.700 phương tiện.

Cần thay thế khoảng 12.000 xe buýt trên toàn quốc

Viện Chiến lược và phát triển GTVT vừa hoàn thành khảo sát về phương tiện giao thông công cộng tại các đô thị Việt Nam.

Thông tin từ Viện Chiến lược và phát triển GTVT cho biết, cơ quan này đã tiến hành khảo sát tại 5 thành phố gồm: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ.

Kết quả khảo sát cho thấy, thị phần vận tải hành khách công cộng tại Hà Nội hiện nay đạt khoảng 15%, trong đó bằng xe buýt đáp ứng khoảng 8%-9%; Tại TP.HCM đạt khoảng 9,5%, trong đó xe buýt đáp ứng khoảng 7,5%; Các TP Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ chỉ đạt xấp xỉ 1%.

Cả nước hiện có 854 tuyến buýt với tổng chiều dài mạng lưới buýt 32.344km. Có hơn 8.500 xe buýt, trong đó buýt nhỏ 2.027 xe (23,8%), buýt trung bình 5.179 xe (60,9%), buýt lớn 1.300 xe (15,3%).

Nhưng số xe buýt thân thiện môi trường chiếm tỷ lệ nhỏ, chỉ 849 xe; trong đó buýt sử dụng nhiên liệu sạch CNG 702 xe (82,7%), buýt điện 148 xe (17,4%).

Số lượng xe buýt sử dụng nhiên liệu diezel trên cả nước hiện rất lớn

Số lượng xe buýt sử dụng nhiên liệu diezel trên cả nước hiện rất lớn

Với taxi, toàn quốc có 769 doanh nghiệp taxi, hơn 67.500 xe taxi; Hơn 11.700 doanh nghiệp xe hợp đồng, du lịch, với hơn 193.300 xe hợp đồng, du lịch. Tuy nhiên chưa có taxi, xe hợp đồng du lịch sử dụng điện, nhiên liệu thân thiện với môi trường.

Trong khi đó, theo các quy hoạch, kế hoạch phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, tại 5 thành phố được khảo sát, nhu cầu đầu tư, thay thế phương tiện buýt giai đoạn 2022-2025 ước khoảng 3000-3.800 phương tiện và giai đoạn 2026-2030 ước khoảng 3.500-3.700 phương tiện.

Xét trên quy mô toàn quốc, nhu cầu đầu tư, thay thế đoàn phương tiện buýt giai đoạn 2022-2025 ước khoảng 5.000-5.800 phương tiện và giai đoạn 2026-2030 ước khoảng 5.500-6.000 phương tiện.

Buýt điện thân thiện môi trường nhưng cần một lộ trình thay thế phù hợp

Buýt điện thân thiện môi trường nhưng cần một lộ trình thay thế phù hợp

Nguồn lực đầu tư quá lớn, cần lộ trình hợp lý

Viện Chiến lược và phát triển GTVT cho biết, theo Quyết định 876/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan của ngành GTVT, lộ trình chuyển đổi xe buýt, taxi được quy định cụ thể.

Theo đó đến 2025, 100% xe buýt thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh. Đến 2030, 50% xe buýt sử dụng điện, năng lượng xanh; 100% xe taxi thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh. Đến 2050, 100% xe buýt, taxi sử dụng điện, năng lượng xanh.

Như vậy, để đạt được mục tiêu này, giai đoạn từ nay đến 2030, vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt cần tiếp tục đầu tư phát triển mạnh mẽ, xác định là loại hình vận tải công cộng chủ đạo.

Tuy nhiên, nhu cầu về đầu tư, thay thế phương tiện buýt điện/thân thiện môi trường trong giai đoạn từ nay đến 2030 và giai đoạn sau 2030 đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn.

Các doanh nghiệp vận tải sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức. Trong đó, đối với phương tiện buýt điện, chi phí đầu tư phương tiện có giá thành rất cao, hệ thống hạ tầng trạm sạc còn hạn chế. Hiện chưa có đơn giá định mức cho loại hình phương tiện này, chưa có các chính hỗ trợ về vốn vay cho doanh nghiệp đầu tư buýt điện, chưa có quy hoạch hạ tầng mạng lưới trạm sạc...

Đối với phương tiện buýt CNG, đã có bộ định mức kinh tế, kỹ thuật, đơn giá cho buýt CNG, tuy nhiên mới chỉ đảm bảo tối thiểu cho quá trình vận tải, còn một số hạng mục chưa được đưa vào đơn giá. Chính sách hỗ trợ 50% lãi vay vốn ngân hàng để đầu tư mua sắm phương tiện còn một số vướng mắc trong thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư phương tiện. Bên cạnh đó là những khó khăn về quỹ đất để xây dựng bãi đỗ, depot, trạm nạp khí và nguồn cung khí CNG chưa ổn định.

Đối với các doanh nghiệp taxi, khó khăn chủ yếu đến từ nguồn vốn đầu tư phương tiện. Bên cạnh đó, đặc thù dịch vụ vận tải taxi có phạm vi hoạt động rộng, cả trong và ngoài đô thị, vì vậy cần phải có thời gian kiểm chứng về mức độ an toàn và điều kiện vận hành trong các địa hình đồi núi, phức tạp của phương tiện điện.

“Cần nghiên cứu chi tiết để đánh giá các khó khăn, thách thức, các khoảng trống hiện nay để xây dựng lộ trình chuyển đổi toàn diện, từng bước, phù hợp với đặc thù các địa phương, năng lực của các doanh nghiệp, hợp tác xã vận tải hiện nay và xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu tiên đầu tư nhằm tháo gỡ khó khăn và thách thức”, đại diện Viện Nghiên cứu và chiến lược GTVT nêu.