EVN có những vi phạm gì theo Kết luận thanh tra chuyên ngành về điện của Bộ Công Thương?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN -  Kết luận thanh tra về việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý và điều hành cung cấp điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị có liên quan đến cấp điện đã chỉ rõ một số sai phạm của EVN trong thời gian qua, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thiếu điện, cắt điện luân phiên trên diện rộng ở miền Bắc trong tháng 6.
EVN có một số vi phạm trong hoạt động cung ứng điện, dẫn đến thiếu điện tại miền Bắc

EVN có một số vi phạm trong hoạt động cung ứng điện, dẫn đến thiếu điện tại miền Bắc

Chậm đàm phán mua than cho nhiệt điện

Theo Kết luận thanh tra, hàng năm, EVN có văn bản yêu cầu các đơn vị trực thuộc, các GENCO 1, 2, 3 rà soát, xác định nhu cầu và chuẩn bị nhiên liệu than cho sản xuất điện; phê duyệt kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng, duy trì cơ sở hạ tầng tiếp nhận than; triển khai thực hiện thí điểm đốt than trộn tại nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) than...

Tuy nhiên, quá trình triển khai của một số NMNĐ trực thuộc EVN và các GENCO 1, 2, 3 thực hiện không kịp thời như: NMNĐ Hải Phòng, Vĩnh Tân 4, Duyên Hải 1, Duyên Hải 3, Vĩnh Tân 2, Uông Bí mở rộng; công tác chuẩn bị cơ sở hạ tầng tiếp nhận than còn chậm triển khai, chưa đạt tiến độ theo kế hoạch (công tác nạo vét luồng cảng biển Vĩnh Tân 4; công tác nghiên cứu, sử dụng than pha trộn, than nhập khẩu còn chậm triển khai (Hải Phòng);

Không thực hiện đầy đủ quy định về định mức tồn kho than theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương, dẫn đến xảy ra tình trạng một số NMNĐ than tồn kho thấp kéo dài, không đảm bảo đủ than cho phát điện cục bộ ở một số thời điểm.

Cụ thể, hàng năm, tiến độ ký hợp đồng mua than với Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty than Đông Bắc hầu hết hoàn thành trong tháng 1 (năm 2021, 2022) hoặc tháng 12 năm trước (năm 2023).

Tuy nhiên, đến ngày 2-3-2022, EVN mới có văn bản thống nhất giá than pha trộn, dẫn đến tình trạng thiếu than cục bộ ở một số tháng đầu năm 2022.

Năm 2023, trong 5 tháng đầu năm, TKV và Tổng công ty than Đông Bắc cơ bản cung cấp đủ khối lượng than cam kết tại Hợp đồng mua bán than năm 2023 đã ký, dự kiến cả năm 2023 cấp đạt và vượt khối lượng than đã cam kết tại Hợp đồng năm 2023.

Tuy nhiên, xuất hiện tình trạng thiếu than cục bộ ở một số NMNĐ tại thời điểm đầu năm và kéo dài đến tháng 5, điều này thể hiện qua việc dự phòng nhiên liệu của các nhà máy ở mức thấp so với nhu cầu phát điện, đặc biệt một số NMNĐ có mức tồn kho thấp kéo dài và/hoặc giảm rất nhanh, như: Duyên Hải 1 tồn kho dưới 70%;

Duyên Hải 3 tồn kho từ 67% vào cuối tháng 4 và giảm nhanh xuống 8% vào cuối tháng 5; Vĩnh Tân 2 tồn kho 11% vào tháng 01 và 30% vào tháng 3; Vĩnh Tân 4 tồn kho giảm nhanh từ 30% vào tháng 3 xuống còn 1,6% vào tháng 5; Hải Phòng tồn kho dưới định mức kéo dài, từ tháng 2 - 4 duy trì ở mức 40-50%; Thái Bình tồn kho thấp dưới định mức tối thiểu kéo dài, từ tháng 2 đến tháng 5 chỉ duy trì ở mức 18-44%.

Kết luận thanh tra cho biết, các NMNĐ xảy ra thiếu than phần lớn thuộc quản lý của EVN.

Trong khi đó, nhiều sự cố các tổ máy phát điện kéo dài gây ảnh hưởng đến cung cấp điện, như: Tổ máy S2 (300 MW) NMNĐ Cẩm Phả (sự cố từ ngày 21/6/2022); Tổ máy S1 (600 MW) NMNĐ Vũng Áng 1 (sự cố từ ngày 19/9/2021); Tổ máy S6 (300 MW) NMNĐ Phả Lại 2 (sự cố từ ngày 16/3/2021).

Trong 5 tháng đầu năm, các nguồn nhiệt điện than miền Bắc đã xảy ra 88 sự cố tổ máy, ảnh hưởng lớn đến công suất khả dụng của toàn hệ thống điện miền Bắc;

Đáng chú ý, tổng số sự cố tổ máy các nhà máy điện thuộc quản lý của EVN và các GENCO chiếm tỷ lệ 51,1% (45/88), trong đó, tại khu vực miền Bắc, số tổ máy của EVN và các GENCO gặp sự cố là 26/50, chiếm tỷ lệ 52% tổng số tổ máy khu vực miền Bắc.

“Việc xử lý sự cố, khôi phục vận hành lại các tổ máy chậm gây thiếu hụt nguồn cung ứng điện cho hệ thống điện quốc gia, đặc biệt là khu vực miền Bắc trong giai đoạn cao điểm như thời gian vừa qua”- Kết luận thanh tra nêu.

Khai thác thủy điện chưa hợp lý

Thanh tra công tác điều tiết hồ chứa thủy điện theo quy định Quy trình vận hành liên hồ chứa, Kết luận cho biết, theo báo cáo của Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia (A0), tính đến ngày 31/12/2022, tổng sản lượng tích trong hồ đạt 12,96 tỷ kWh hụt 2,1 tỷ kWh so với mức nước dâng bình thường (thấp hơn 1,5 tỷ so với kế hoạch năm 2022) đạt 86% dung tích toàn hệ thống.

Trong đó, miền Bắc đạt 6,67 tỷ kWh hụt 1,26 tỷ so với mức nước dâng bình thường (thấp hơn 1,04 tỷ kWh so với kế hoạch năm 2022) đạt 84% dung tích toàn miền Bắc.

Theo kiểm tra, tính toán trên số liệu, báo cáo của EVN và A0 cho thấy, trong giai đoạn 2021-2023, tại một số thời điểm, mực nước của các hồ chứa thủy điện: Hòa Bình, Thác Bà, Trung Sơn, Bản Vẽ, Sông Tranh 2, A Vương, Krông H’Năng, Sông Hinh, Buôn Tua Srah, Thượng Kon Tum, Ialy, Đồng Nai 3, Đại Ninh, Trị An, Sông Bung 4, Hàm Thuận, Thác Mơ dưới ngưỡng mực nước theo quy định của các Quy trình liên hồ chứa được Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Từ tháng 7/2022, việc tăng cường khai thác nước phục vụ phát điện của các nhà máy thủy điện lớn khu vực phía Bắc, gồm 08 hồ chứa thủy điện là Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Bản Chát, Tuyên Quang, Thác Bà (thuộc lưu vực sông Hồng); Trung Sơn (thuộc lưu vực sông Mã); Bản Vẽ (thuộc lưu vực sông Cả), làm giảm mực nước các hồ so với Kế hoạch vận hành hệ thống điện năm 2022, mặc dù đã được dự báo và quan trắc về số liệu thủy văn về lưu lượng nước về chỉ đạt 60- 80% so với trung bình nhiều năm.

Việc huy động vận hành các hồ chứa thủy điện nêu trên làm giảm mực nước các hồ chứa so với kế hoạch năm và thấp hơn đáng kể so với mực nước dâng bình thường, ảnh hưởng đến việc điều tiết chuẩn bị nước cho phát điện mùa khô năm 2023 và dẫn đến công tác vận hành chưa sát thực tế thủy văn, chưa chủ động trong các kịch bản ứng phó, đảm bảo cung cấp điện.

Trong tháng 3/2023, lưu lượng nước về các hồ có dấu hiệu giảm, sản lượng điện theo nước về toàn hệ thống thấp hơn 563 triệu kWh so với kế hoạch năm. Đến cuối tháng 5 năm 2023, các nhà máy thủy điện Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang, Thác Bà về gần mực nước chết, ảnh hưởng đến việc sẵn sàng phát điện, cung cấp điện cho hệ thống điện; chỉ có hồ thủy điện Hòa Bình giữ được mực nước cao sẵn sàng phát điện đáp ứng điều chỉnh tần số của hệ thống điện và cung cấp điện miền Bắc.

“Như vậy, việc định hướng hạ mực nước cho cuối năm 2022, làm mực nước các hồ thủy điện giảm so với mực nước trong kế hoạch vận hành hệ thống điện được duyệt, gây ảnh hưởng đến việc điều tiết chuẩn bị nước cho phát điện mùa khô năm 2023 là không tuân thủ kế hoạch đã được Bộ Công Thương phê duyệt tại Quyết định số 3063/QĐ-BCT ngày 31/12/202”- Kết luận thanh tra nêu.

Đồng thời, việc tiếp tục huy động cao sản lượng thủy điện năm 2023 theo chỉ đạo của Hội đồng thành viên EVN tại Thông báo số 722/TB-EVN ngày 30/12/2022 làm giảm mực nước các hồ thủy điện trong các tháng đầu năm gây mất cân đối cơ cấu nguồn điện, ảnh hưởng cung cấp điện trong giai đoạn cao điểm mùa khô 2023 cho hệ thống điện, đặc biệt là hệ thống điện miền Bắc.

Bên cạnh đó, Kết luận thanh tra của Bộ Công thương cũng chỉ ra công tác dự báo nhu cầu phụ tải điện của A0 chưa đạt yêu cầu, cụ thể: Năm 2021: tháng 3 dự báo chênh với thực tế 7%; Năm 2022: tháng 2 dự báo chênh với thực tế 5,7%; tháng 6 dự báo chênh với thực tế 3,6%; 5 tháng đầu năm 2023: tháng 1 dự báo chênh với thực tế 7,6%; tháng 2 dự báo chênh với thực tế 4%; tháng 4 dự báo chênh với thực tế 5,1%...