Vụ án hy hữu bị vợ cũ 'bán trộm' căn hộ cao cấp sau ly hôn

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Không còn tình nghĩa, anh P. quyết định ly hôn với người vợ nhưng lại không đề cập việc phân chia tài sản là căn hộ chung cư cao cấp. Suýt chút nữa anh P. bị người khác "bán trộm" mất tài sản...

Theo đơn kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Kim P. (SN 1983, trú tại quận Thanh Xuân, Hà Nội) và đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, ngày 30-11, TAND TP Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm đối với nhóm đối tượng về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức".

Theo đó, bản án sơ thẩm cho thấy, Đào Thúy Hồng (SN 1985, trú ở quận Thanh Xuân, Hà Nội) và anh Nguyễn Kim P. là vợ chồng nhưng năm 2020, hai người ly hôn. Giữa hai người có tài sản chung là căn hộ tại một chung cư cao cấp ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Quá trình ly hôn, hai người không đề nghị tòa án giải quyết và chưa phân chia tài sản trên.

Các bị cáo trong vụ án bị đưa ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm.

Các bị cáo trong vụ án bị đưa ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm.

Khoảng đầu tháng 10-2020, do cần tiền nên thông qua các mối quan hệ, Đào Thúy Hồng quen biết Nguyễn Trọng Nam (SN 1975, ở quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) và Nguyễn Thị Thanh (SN 1976, ở huyện Hoài Đức, Hà Nội). Nam đồng ý cho vay tiền với điều kiện Hồng phải làm thủ tục chuyển nhượng căn hộ để đảm bảo khoản vay. Trước yêu cầu trên, mặc dù không có toàn quyền định đoạt căn hộ, song Hồng vẫn đồng ý.

Sau đó, Nam nhờ hai nhân viên ngân hàng đi cùng đến căn hộ trên để thẩm định và đồng ý cho Hồng vay 1,2 tỷ đồng với lãi suất 12%/ năm. Nam yêu cầu Hồng cung cấp các giấy tờ gồm căn cước công dân của hai vợ chồng, sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

Khi đó, Hồng nói với Nguyễn Thị Thanh là đã ly hôn chồng. Thanh trao đổi với lại với Nam. Hai người này đã bàn bạc, rồi tìm người đóng giả anh P., thuê người làm giả căn cước công dân của chồng cũ Hồng để ký hợp đồng ủy quyền. Nam hứa hẹn nếu hoàn thành công việc sẽ trả tiền công cho Thanh. Thanh nói lại kế hoạch trên và Hồng đồng ý.

Giữa tháng 10-2020, Thanh thuê Lê Văn Phương (SN 1983, trú tại huyện Quốc Oai, Hà Nội) đóng giả anh P. Ngày 9-11-2020, Nam bảo Thanh liên hệ văn phòng công chứng Vũ Tiến Trí để lập hợp đồng ủy quyền.

Nội dung là anh P. ủy quyền cho Hồng toàn quyền sở hữu, định đoạt căn hộ. Thanh đưa Hồng vào văn phòng ký phiếu yêu cầu công chứng và ký hợp đồng ủy quyền. Hồng ký tên, điểm chỉ vào bên được ủy quyền. Còn Phương ký tên và điểm chỉ vào bên ủy quyền.

Sau này, Thanh gặp và đưa cho Phương 10 triệu đồng tiền công. Còn căn cước công dân giả, Thanh bẻ nhỏ và phi tang.

Có hợp đồng ủy quyền trong tay, Nam liên hệ với chị Nguyễn Xuân H. (SN 1976) hỏi vay 2,5 tỷ đồng. Khi vay tiền, Nam cũng nói có tài sản đảm bảo là căn hộ của Hồng. Để đảm bảo khoản vay, chị H. đã nhờ bạn là Nguyễn Thị T. đứng tên ký hợp đồng mua bán căn hộ với Hồng.

Hoàn thiện xong hợp đồng mua bán, Nam tiếp tục nhờ chị H. làm thủ tục sang tên căn hộ để Nam liên hệ vay tiền ngân hàng. Tuy nhiên, căn hộ bị chặn giao dịch sang tên chuyển nhượng. Chị H. đã liên hệ với Nam và yêu cầu trả lại số tiền đã vay. Nhưng Nam và Hồng chưa có tiền để trả.

Đến tháng 3-2021, biết căn hộ trên được gỡ bỏ ngăn chặn giao dịch nên Nam đã liên hệ làm thủ tục sang tên căn hộ cho chị Nguyễn Thị T. – bạn chị H. Ngày 30-3-2021, Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hà Nội đã cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất cho chị Nguyễn Thị T.

Ngày 15-4-2021, Nam nhờ chị T. làm thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất căn hộ trên để vay ngân hàng hơn 3,1 tỷ đồng. Hiện, Nam đã trả lại cho chị H. 2,5 tỷ đồng nợ gốc và 500 triệu đồng tiền lãi.

Đến ngày 26-5-2021, Hồng làm đơn đến cơ quan công an tố giác Nam có hành vi làm giả con dấu, tự ý sang tên căn hộ và thế chấp vay tiền ngân hàng. Cũng trong khoảng thời gian này, Hồng trả nợ Nam tiền vay mượn. Đến ngày 25-6-2021, Nam đã đưa cho chị T. hơn 3,1 tỷ đồng để tất toán khoản vay ngân hàng và lấy lại "sổ đỏ" căn hộ để giao cho cơ quan điều tra.

Trong khi đó, tháng 7-2021, anh P. phát hiện căn hộ bị sang tên cho chị T. đã gửi đơn đến cơ quan công an... Quá trình điều tra, Nam khai nhận, do muốn có thêm khoản tiền chênh nên cùng với Thanh thuê người đóng giả anh P. nhằm mục đích làm giả hợp đồng ủy quyền.

Mở tòa xét xử các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên hủy hợp đồng ủy quyền, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Nguyễn Thị T. Tòa xác định, bị cáo Hồng và anh P. có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp lại "sổ đỏ".

Về hình phạt áp dụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã lần lượt quyết định tuyên phạt Nguyễn Trọng Nam 30 tháng tù, Nguyễn Thị Thanh 28 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Lê Văn Phương 28 tháng tù (hưởng án treo) và Đào Thúy Hồng 26 tháng tù (hưởng án treo).

Sau phiên tòa sơ thẩm, anh P. kháng cáo đề nghị Tòa cấp phúc thẩm bổ sung tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" đối với các bị cáo. Anh P. cũng cho rằng cần phải xác định lại tư cách tham gia tố tụng với mình là bị hại trong vụ án chứ không phải người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, anh P. còn đề nghị Tòa cấp phúc thẩm xem xét lại hình phạt đối với các bị cáo.

Tuy nhiên, quá trình xét xử phúc thẩm vụ án, TAND TP Hà Nội xác định việc bị cáo Hồng chuyển nhượng căn hộ chỉ là thỏa thuận giả cách để vay tiền. Các bị cáo đã giải chấp căn hộ để nộp lại "sổ đỏ" cho cơ quan điều tra.

Vì vậy, không có căn cứ xác định các bị cáo phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" hoặc "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Do anh P. vẫn giữ tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên không có quyền kháng cáo về phần hình phạt đối với các bị cáo.

Sau khi xem xét toàn diện nội dung vụ án, TAND TP Hà Nội quyết định giảm một phần hình phạt cho các bị cáo. Cụ thể, bị cáo Nam được giảm xuống còn 20 tháng tù, Thanh được giảm xuống còn 20 tháng tù (hưởng án treo) và bị cáo Phương và Hồng lần lượt được giảm xuống còn 18 tháng tù (hưởng án treo).