Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Tuvalu, một đảo quốc ở Nam Thái Bình Dương, Việt Nam đã hoàn tất việc có quan hệ ngoại giao với tất cả 193 nước thành viên Liên hợp quốc.

Dấu mốc lịch sử trong quan hệ Việt Nam - Tuvalu

Chiều 24-9, tại trụ sở phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc ở New York, Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung cùng Bộ trưởng Ngoại giao, Lao động và Thương mại Tuvalu Paulson Panapa đã ký Thông cáo thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tuvalu. Hai bên khẳng định việc ký kết Thông cáo chung là một dấu mốc lịch sử, đặt nền móng cho quan hệ hợp tác giữa hai nước; nhất trí tiếp tục trao đổi để thúc đẩy hoạt động hợp tác cụ thể trong những lĩnh vực có tiềm năng như kinh tế biển, du lịch, giáo dục.

Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung và Bộ trưởng Ngoại giao, Lao động và Thương mại Tuvalu ký Thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao

Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung và Bộ trưởng Ngoại giao, Lao động và Thương mại Tuvalu ký Thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao

Với việc ký Thông cáo chung này, Việt Nam trở thành một trong số ít các quốc gia trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả 193 nước thành viên Liên hợp quốc. Tuvalu là một đảo quốc nhỏ ở phía Nam Thái Bình Dương, theo chế độ quân chủ lập hiến và dân chủ nghị viện. Theo đó, Vua Anh là người đứng đầu nhà nước, đại diện bởi Toàn quyền; Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ.

Tuvalu là nền kinh tế nhỏ và dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu. Các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, đặc biệt là cá ngừ, và trồng cây lương thực. Trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Tuvalu có quan hệ ngoại giao với 123 quốc gia, trong đó có 6 quốc gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là Malaysia, Singapore, Philippines, Thái Lan, Campuchia, Indonesia. Đảo quốc này hiện là thành viên Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Khối thịnh vượng chung Anh và một số các tổ chức thuộc khu vực Thái Bình Dương.

Trong những năm qua, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, công tác đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam đã đạt được “những kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử”. Quan hệ ngoại giao không ngừng được mở rộng, đi vào chiều sâu. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; đã ký 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới.

Trong đối ngoại song phương, việc nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các đối tác chủ chốt, quan trọng cùng các hoạt động đối ngoại cấp cao sôi động trong những năm qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, đã góp phần tạo nên tầm vóc chiến lược mới, đưa hợp tác đi vào chiều sâu, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài và bền vững của các mối quan hệ.

Đối ngoại, ngoại giao đa phương đã trưởng thành mạnh mẽ, khẳng định Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ngoài Liên hợp quốc, hiện nay, Việt Nam là thành viên của ASEAN, Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Không chỉ tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như hội nghị thượng đỉnh, hội nghị cấp cao ASEAN, APEC…, ngoại giao Việt Nam còn hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế tại các cơ chế quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)…

Trong phục vụ phát triển và hội nhập quốc tế, cùng với việc huy động nguồn lực quan trọng cho phát triển như FDI, ODA, đối ngoại, ngoại giao đã góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu với việc ký kết, tham gia các thỏa thuận, khuôn khổ kinh tế quan trọng. Việt Nam cũng được Liên hợp quốc ghi nhận vai trò tiên phong trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và thúc đẩy quyền con người.

Đổi mới sáng tạo về tư duy đối ngoại

Thế giới đang bước vào một giai đoạn mới với chuyển động rất nhanh, mạnh, phức tạp. Trật tự “đa cực, đa trung tâm” nổi lên ngày càng rõ nét; các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược, kiềm chế lẫn nhau, đẩy mạnh liên kết, tập hợp lực lượng, quyết tâm giành vị thế và lợi ích… Xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, chiến tranh cục bộ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên diễn ra dưới hình thức mới, gay gắt hơn... Sự phân mảnh kinh tế và cạnh tranh - địa - chính trị ngày càng gia tăng, trong khi các vấn đề toàn cầu, như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và dịch bệnh đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ từ cộng đồng quốc tế.

Mặc dù môi trường bên ngoài biến động, Việt Nam tiếp tục nổi lên là một “điểm sáng” hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực. Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, đối ngoại Việt Nam cần có sự hoàn thiện liên tục về nhận thức, đổi mới sáng tạo về tư duy, chủ động, khéo léo trong biện pháp để thực hiện tốt vai trò kiến tạo, định hình cục diện đối ngoại thuận lợi, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Để làm được việc này, Việt Nam cần tiếp tục nâng cao và thống nhất về nhận thức, hành động; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tăng cường hiệu quả công tác đối ngoại; xác định đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; đưa đối ngoại, ngoại giao lan tỏa vào từng mạch phát triển quan trọng của đất nước, đi sâu vào mọi mặt của đời sống chính trị đất nước.

Trong quan hệ với các nước lớn và nhóm nước lớn, Việt Nam cần đặc biệt coi trọng, vừa bảo đảm độc lập, tự chủ, thực hiện ưu tiên của chính sách đối ngoại, vừa xử lý khôn khéo, thúc đẩy hài hòa các mối quan hệ, hóa giải “từ sớm, từ xa” tác động bất lợi, đồng thời tranh thủ khai thác tiềm lực kinh tế, tạo đột phá trong quan hệ kinh tế. Trong quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam cần tiếp tục củng cố phên giậu an ninh và phát triển liền kề thông qua các mối quan hệ song phương và trong khuôn khổ ASEAN, đồng thời đóng góp tích cực và phát huy vai trò trong ASEAN, nhất là trong vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế và phát triển để tăng cường hội nhập toàn diện và sâu rộng trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN cũng như giữa ASEAN với mạng lưới đối tác bên ngoài

Tiếp tục thúc đẩy ngoại giao kinh tế, khai thác tối đa lợi ích của hiệp định thương mại tự do, đầu tư hiện có, nhất là thị trường, lĩnh vực chưa được khai thác; khai mở nguồn đầu tư, tài chính mới, thị trường mới, nhất là nguồn lực từ các khu vực, như Trung Đông, Mỹ Latinh hay doanh nghiệp, quỹ đầu tư lớn; giải quyết dự án lớn tồn đọng, từ đó tạo đòn bẩy thu hút dự án mới; tiếp tục rà soát, đôn đốc triển khai cam kết, thỏa thuận quốc tế, cụ thể hóa khuôn khổ quan hệ vừa được nâng cấp với đối tác thành chương trình, dự án hợp tác kinh tế thiết thực, hiệu quả.

Cùng với đó là nhận diện, tranh thủ cơ hội từ xu hướng kinh tế mới đang định hình, như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; tạo lập hợp tác sâu rộng với trung tâm đổi mới sáng tạo của thế giới trong lĩnh vực mang tính đột phá, như công nghệ cao, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), lượng tử để góp sức thúc đẩy động lực tăng trưởng mới, đột phá vào lĩnh vực mới, tạo đà cho bước phát triển đột phá của đất nước.