![]() |
Ngành sữa Việt Nam còn nhiều dư địa phát triển |
Chia sẻ tại hội thảo: “Phát triển ngành sữa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, PGS.TS Vũ Nguyên Thành cho hay, sữa hoàn nguyên từng là giải pháp phù hợp trong bối cảnh Việt Nam còn nhiều khó khăn về kinh tế, góp phần bổ sung dinh dưỡng cho trẻ em trong giai đoạn phát triển.
Tuy nhiên, khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi, việc tiếp tục sử dụng sữa hoàn nguyên hoặc sữa pha lại cần được cân nhắc.
Trong khi đó, theo ông Vũ Nguyên Thành, sữa tươi tuy vượt trội về giá trị dinh dưỡng nhưng đang gặp bất lợi trong cạnh tranh do chênh lệch giá thành so với sữa hoàn nguyên. Điều này dẫn tới một nghịch lý trên thị trường, sản phẩm dinh dưỡng tốt hơn lại ít cơ hội hơn.
“Vấn đề nằm ở chỗ, phần lớn người tiêu dùng hiện vẫn nhầm lẫn giữa “sữa tươi tiệt trùng” và “sữa hoàn nguyên tiệt trùng” do chưa có sự phân biệt rõ ràng trong các quy chuẩn kỹ thuật hiện hành. Việc pha sữa bột rồi tiệt trùng cũng được gọi là “sữa tiệt trùng”, khiến người dân khó nhận diện bản chất sản phẩm”- ông Vũ Nguyên Thành cho hay.
Quá trình rà soát và xây dựng lại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm sữa, Viện Công nghiệp thực phẩm nhận thấy còn nhiều bất cập trong quy chuẩn hiện hành. Do các quy định hiện nay chưa phân định rõ ràng giữa sữa được làm từ nguyên liệu tươi và sữa được pha từ sữa bột hoàn nguyên nên dẫn đến tình trạng cùng một nhãn "sữa tiệt trùng" nhưng bản chất sản phẩm khác nhau hoàn toàn.
Bên cạnh đó, một chỉ số dinh dưỡng quan trọng là chất béo chưa được quy định về hàm lượng tối thiểu bắt buộc phải có. “Đây là một trong những thành phần có giá trị nhất của sữa. Chất béo không chỉ là nguồn năng lượng mà còn đóng vai trò trong phát triển não bộ, cung cấp vitamin A, D, E, K và hỗ trợ miễn dịch”- Viện trưởng Viện Công nghiệp thực phẩm nhấn mạnh.
Việc chưa phân định rõ ràng giữa sữa được làm từ nguyên liệu tươi và sữa được pha từ sữa bột hoàn nguyên cũng dẫn đến tình trạng cùng một nhãn "sữa tiệt trùng" nhưng bản chất sản phẩm khác nhau hoàn toàn. Nhiều chỉ số dinh dưỡng quan trọng như: protein, chất béo, vitamin D, canxi… chưa được quy định rõ về hàm lượng tối thiểu hoặc mức bắt buộc phải có.
Ở nhiều nước, các vi chất thiết yếu này được quy định cụ thể để đảm bảo dinh dưỡng, đặc biệt với trẻ nhỏ. Nhưng tại Việt Nam, chưa có quy định chi tiết tương đương.
“Việc cập nhật, hoàn thiện quy chuẩn kỹ thuật về sữa là rất cấp thiết, không phải vì có sai sót mà là do thực tiễn đã thay đổi, đòi hỏi phải có điều chỉnh phù hợp để bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em và đảm bảo sự minh bạch trên thị trường sữa hiện nay”- ông Vũ Nguyên Thành cho biết thêm.
Cùng quan điểm, GS.TS.BS Lê Thị Hợp- Chủ tịch Hội Nữ trí thức Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho rằng, cần minh bạch trong phân biệt các loại sữa, đặc biệt trong chương trình “Sữa học đường”.
Theo bà, tranh luận hiện nay xoay quanh loại sữa sử dụng trong chương trình sữa học đường. Dù trên nhãn có ghi "sữa tươi tiệt trùng", nhưng thực tế rất khó xác định đó là sữa tươi nguyên liệu hay sữa hoàn nguyên pha lại từ bột. Nếu là sữa hoàn nguyên thì giá thành có thể rẻ hơn, nhưng chất lượng dinh dưỡng chắc chắn không bằng sữa tươi nguyên chất.
Bà Hợp cho rằng: “Đối với các sản phẩm sữa, cần minh bạch tuyệt đối trong thông tin ghi nhãn và truyền thông sản phẩm, đặc biệt với các chương trình cộng đồng có liên quan đến trẻ em. Chúng ta không thể gian lận với người tiêu dùng, nhất là trẻ nhỏ”.
Bà Lê Thị Hợp khuyến nghị cơ quan quản lý cần có quy định rõ ràng về việc phân loại, ghi nhãn sữa, đặc biệt trong các chương trình quốc gia như sữa học đường để tạo dựng lòng tin và đảm bảo quyền lợi dinh dưỡng cho học sinh.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam là khoảng 27 lít/người/năm. Dự báo mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người hàng năm sẽ tiếp tục tăng 7 - 8%.
So với các nước trong khu vực, nhu cầu sử dụng sữa bình quân đầu người của Việt Nam hiện vẫn thấp so với thế giới, trong khi Thái Lan là 35 lít/người/năm, Singapore là 45 lít/người/năm và các nước châu Âu từ 80 - 100 lít/người/năm.
Thứ trưởng Trương Thanh Hoài cho biết, chiến lược phát triển ngành sữa giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Quyết định số 3399/QĐ-BCT ngày 28/6/2010 phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 đã đạt những mục tiêu đề ra.
Năm 2023, sản lượng sữa tươi của cả nước đạt khoảng 1,86 tỷ lít, sữa bột đạt khoảng 154,8 nghìn tấn. Tuy nhiên, nguồn sữa tươi khai thác từ đàn bò sữa trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 38% nhu cầu sữa chế biến.
Theo Thứ trưởng Trương Thanh Hoài, trước xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do, trong đó có một số Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA… sẽ tạo nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp ngành sữa của chúng ta phát triển mạnh mẽ; các sản phẩm của ngành sữa có cơ hội lớn xuất khẩu và mở rộng ra các thị trường quốc tế, bên cạnh việc tăng nhu cầu sử dụng sữa ở trong nước.
TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) cho hay, với đặc điểm địa lý và khí hậu của đất nước rất thuận lợi cho phát triển đàn bò sữa, việc đầu tư phát triển ngành sữa vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất với chi phí nhân công thấp, đồng thời mang lại sinh kế cho người dân thiếu việc làm và thiếu thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tăng cường an sinh xã hội, gắn liền lợi ích doanh nghiệp với cộng đồng.
Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam thông tin, theo báo cáo, sản lượng sữa tươi nội địa hiện chỉ đáp ứng khoảng 38 - 40% nhu cầu tiêu dùng, phần còn lại phải nhập khẩu, chủ yếu dưới dạng sữa bột để hoàn nguyên. Việc này vừa ảnh hưởng tới giá trị dinh dưỡng của sản phẩm, vừa làm suy yếu chuỗi giá trị chăn nuôi bò sữa trong nước.
Chúng ta mới có 3,3 con bò sữa/1.000 dân, thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và chưa tương xứng với tiềm năng tự nhiên và lao động. Đến năm 2030, nếu không có chính sách kịp thời và mạnh mẽ, ngành sữa khó đạt được mục tiêu tự túc 60% nguyên liệu.
Ông cũng đề xuất phát triển song song hai mô hình chăn nuôi thâm canh công nghệ cao của các tập đoàn lớn và chăn nuôi hộ gia đình chuyên nghiệp quy mô 30 - 50 con. Mô hình này tận dụng tốt lao động nông thôn, phụ phẩm nông nghiệp, đồng thời lan tỏa giá trị chuỗi sản xuất đến cộng đồng.