Hết yêu, đòi tiền tình phí, phạm tội gì?

ANTD.VN - Do có mâu thuẫn trong quan hệ tình ái giữa Nguyễn Tuấn B (sinh năm 1990) và Trần Phương H (SN 1993) nên khoảng 12h ngày 4-11, khi H đang cùng bạn gái ngồi uống cà phê thì Nguyễn Tuấn B gọi điện thoại cho H rồi đi xe máy đến quán chửi mắng H, buộc cả hai lên xe máy về nhà trọ của B. 

Ảnh: Minh họa

Nội dung vụ việc

Tại đây, B tiếp tục chửi mắng H và bắt hai người phải quỳ trước cửa nhà nhưng họ không làm theo nên B chạy vào trong nhà lấy ra một con dao dọa chém. Thấy vậy, bạn của B liền ra can ngăn và giằng dao cất đi nhưng B lao vào dùng tay túm tóc, tát đánh vào mặt, vào người H. Sau đó B yêu cầu H phải thuê taxi đi chỗ khác để nói chuyện. H gọi taxi đến và cả bốn người cùng lên xe.

Trên xe taxi, B vẫn tiếp tục chửi và đánh H. Khi đi đến đoạn đường vắng, B yêu cầu xe dừng lại, cả bốn người cùng xuống xe.Lúc này, B lại tiếp tục chửi và đánh H rồi yêu cầu H phải đưa cho mình 2 triệu đồng tiền… tình phí. H sợ, nhưng không có tiền mặt nên bảo taxi đưa đến một hiệu cầm đồ. H đã dùng chiếc lắc tay cầm đồ lấy 2 triệu và đưa cho B. Sau khi lấy được tiền, B và bạn bỏ đi, còn H đến công an trình báo.

Vấn đề đặt ra là với hành vi nêu trên, Nguyễn Tuấn B đã phạm tội gì?

 Ý kiến bạn đọc 

Dùng vũ lực để cướp tài sản

Theo nội dung vụ việc tôi cho rằng, hành vi của Nguyễn Tuấn B với chị Trần Phương H thể hiện việc đã dùng vũ lực ngay tức khắc. Cụ thể, từ khi đèo chị H và bạn về phòng trọ của mình, B đã liên tiếp tát, đánh chị H, lấy dao định chém chị H, khi được can ngăn và giằng mất dao thì B lại tiếp tục dùng tay túm tóc, tát đánh chị H làm cho H rất sợ hãi, tiếp sau đó B yêu cầu chị H phải đưa tiền cho mình.

Như vậy, hành vi của B là đã dùng vũ lực làm cho chị H “lâm vào tình trạng không thể chống cự được” nhằm chiếm đoạt tài sản và mục đích cuối cùng là đoạt được tài sản, thể hiện đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật Hình sự.

Tội cướp tài sản: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm...".

Hoàng Anh Tuấn (Lê Chân - Hải Phòng)

Phạm tội cưỡng đoạt tài sản

Theo quy định của pháp luật, tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 1999 là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác chiếm đoạt tài sản.

Tội cưỡng đoạt tài sản được thể hiện bởi hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc dùng vũ lực là nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và được thực hiện công nhiên.

Trong vụ việc này, Nguyễn Tuấn B và chị Trần Phương H có mối quan hệ tình cảm với nhau từ trước. Việc B dùng vũ lực với chị H ban đầu xuất phát từ việc mâu thuẫn cá nhân giữa 2 người chứ không phải hướng tới mục đích để cướp tài sản.

Sau đó B yêu cầu xe thuê xe taxi đi chỗ khác để nói chuyện và dẫn tới việc tiếp tục chửi và đánh rồi yêu cầu chị H phải đưa cho B 2 triệu đồng tiền tình phí. Tuy nhiên, sau đó B đã không chiếm đoạt được tiền của H ngay mà cả 2 phải đến  hiệu cầm đồ để chị H dùng chiếc lắc tay cầm đồ lấy 2 triệu đưa cho B.

Như vậy có thể thấy, việc B lấy tiền của chị H không xảy ra ngay tức khắc sau khi B dùng vũ lực. Do đó, hành vi của B không phù hợp với tội cướp tài sản mà có dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. 

Đỗ Thuý Hiền (Ba Đình - Hà Nội)

Thỏa mãn dấu hiệu của tội cướp tài sản

Theo tôi được biết, tội cướp tài sản có 3 dấu hiệu thuộc mặt khách quan là: Hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trang không thể chống cự được.

Từ những dữ liệu đưa ra, có thể thấy Nguyễn Tuấn B đã liên tiếp dùng vũ lực đối với chị Trần Phương H (từ nhà trọ, trên taxi đến đoạn đường vắng khi xuống taxi). Khi xuống xe taxi B vẫn tiếp tục chửi, đánh chị H và yêu cầu chị H phải đưa 2 triệu tình phí, lúc này hành vi cướp tài sản của B đã hoàn thành.

Có thể ở nhà trọ, trên xe taxi B chưa có ý định bắt chị H phải đưa tiền (chưa có ý định chiếm đoạt) nhưng khi xuống xe taxi, B vừa đánh chị H vừa yêu cầu chị H phải đưa tiền cho mình nên đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội cướp tài sản. 

 Đào Quanh Tuấn (Việt Trì - Phú Thọ)

 Bình luận của luật sư 

Qua nghiên cứu các tình tiết trong nội dung vụ việc trên, có cơ sở để khẳng định Nguyễn Tuấn B đã phạm tội cưỡng đoạt tài sản, vì những lý do sau:

Thứ nhất: Giữa Nguyễn Tuấn B và chị Trần Phương H đã từng có quan hệ yêu đương nhưng quan hệ rạn nứt nên B đã có những hành vi dùng vũ lực đối với chị Trần Phương H, sau khi có những hành vi dùng vũ lực với chị H thì B tiếp tục có hành vi ép chị H phải đưa cho mình 2 triệu đồng tiền… tình phí, được thể hiện bằng lời nói và hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực, chứ chưa có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt ngay tài sản của bị hại tại thời điểm đó (vì lúc đó chị H không có số tiền B yêu cầu và B cũng nhận thức được điều này).

Như vậy, hành vi của B, tuy có dấu hiệu khách quan của tội cướp tài sản, nhưng về mặt chủ quan của tội phạm thì không thỏa mãn dấu hiệu đặc trưng của tội cướp tài sản, đó là hành vi dùng vũ lực phải nhằm chiếm đoạt tài sản, hay nói cách khác, động cơ, mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản khi dùng vũ lực là một trong những dấu hiệu bắt buộc phải có của cấu thành tội cướp tài sản.

Rõ ràng, việc B dùng vũ lực với chị H tại thời điểm đó không phải là nhằm chiếm đoạt tài sản mà là vì vấn đề mâu thuẫn tình cảm, hơn nữa, ngay sau hành vi dùng vũ lực và hành vi ép đưa tiền, chị H có một khoảng thời gian mang lắc vàng đi cầm cố để lấy tiền đưa cho B, do đó trong khoảng thời gian đi taxi để cầm cố lắc vàng thì chị H không hoàn toàn bị tê liệt ý chí và bị tê liệt sự phản kháng mà vẫn có điều kiện để lựa chọn cách xử sự khác, bởi vì đoạn đường đến hiệu cầm đồ là những khu vực đông người, trên xe taxi cũng có những người khác ngoài B và chị H, do đó B khó có điều kiện dùng ngay tức khắc vũ lực đối với chị H nếu như chị H không đáp ứng yêu cầu đưa tiền cho B.

Trong hoàn cảnh này, chị H vẫn có điều kiện để lựa chọn những cách xử sự khác để không phải đưa tiền cho B, tuy nhiên thực tế thì chị H đã lựa chọn cách xử sự là cầm cố lắc vàng để đưa tiền cho B. 

Thứ hai: Nguyễn Tuấn B đã có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực đối với chị H, bởi vì: Khái niệm về “hành vi” cần có sự nhận thức thống nhất là, hành vi không phải chỉ được thể hiện bằng lời nói, mà nó có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động; được thể hiện bằng thái độ, trạng thái tâm lý, cảm xúc và được đặt trong những hoàn cảnh cụ thể…

Như vậy, đánh giá hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực của B thì có thể thấy rằng, B đã có hành vi thể hiện bằng lời nói bắt ép chị H phải đưa cho B hai triệu đồng, không cần biết chị H lấy ở đâu và bằng cách nào (lúc đó chị H nói với B là không có tiền); lời nói của B được thể hiện bằng thái độ hung tợn và điều quan trọng hơn là, hành vi bắt ép bị hại đưa tiền được thực hiện liền ngay sau khi B đã dùng vũ lực và chửi bới bị hại trong một thời gian khá dài và tại nhiều địa điểm khác nhau; rõ ràng tại thời điểm đó thì sự hung tợn của B và sự sợ hãi của bị hại do những hành vi dùng vũ lực trước đó là chưa chấm dứt, phải khẳng định rằng B nhận thức được điều này và đã lợi dụng việc dùng vũ lực trước đó, lợi dụng trạng thái vẫn còn sợ hãi của bị hại để bắt ép bị hại đưa tiền.

Tất cả những biểu hiện hành vi trên của B phải được coi là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản, vì nó đã tác động đến trạng thái tâm lý của bị hại, làm cho bị hại sợ hãi việc B sẽ tiếp tục dùng vũ lực nếu như không đưa tiền cho mình.

Thứ ba, có thể thấy rằng hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực của B là không mang tính ngay tức khắc, bởi vì tại thời điểm đó bị hại không có hai triệu đồng để đưa cho B và B chấp nhận cho bị hại có điều kiện và có một khoảng thời gian để kiếm đủ số tiền hai triệu đồng cho B, nhưng trong sự giám sát và đe dọa của B từ khi đi taxi đến hiệu vàng để chị H cầm cố lắc vàng lấy tiền đưa cho B.

Vì vậy, hành vi của Nguyễn Tuấn B đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản.

Luật sư Nguyễn Chiến Thắng (Văn phòng luật sư Chiến Thắng cùng cộng sự)