Hệ quả của quản lý xuất khẩu lao động không phù hợp

(ANTĐ) - Thanh tra Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH), qua theo dõi công tác xử lý đơn thư phát sinh trong những năm gần đây, cho thấy số lượng đơn thư có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động ngày một tăng.

Hệ quả của quản lý xuất khẩu lao động không phù hợp

(ANTĐ) - Thanh tra Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH), qua theo dõi công tác xử lý đơn thư phát sinh trong những năm gần đây, cho thấy số lượng đơn thư có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động ngày một tăng.

Yếu kém trong công tác quản lý xuất khẩu lao động, người lao động dễ gặp rủi ro (trong ảnh: người lao động chờ làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay)

Yếu kém trong công tác quản lý xuất khẩu lao động, người lao động dễ gặp rủi ro  (trong ảnh: người lao động chờ làm thủ  tục xuất cảnh tại sân bay)

Số lượng đơn thư rơi vào các thị trường Liên bang Nga, Đài Loan (Trung Quốc), CH Séc do lao động phải về nước trước thời hạn. Nội dung các đơn thư khiếu nại, tố cáo chủ yếu tập trung vào: việc làm của người lao động không đúng hợp đồng đã ký với doanh nghiệp trước khi xuất cảnh, chủ sử dụng lao động không trả đầy đủ tiền lương cho người lao động, các khoản khấu trừ tiền lương của người lao động làm việc ở nước ngoài không rõ ràng, điều kiện sinh hoạt tối thiểu không đảm bảo, lao động về nước không được doanh nghiệp giải quyết kịp thời...

Đặc biệt trong năm 2009, do ảnh hưởng của “hậu” khủng hoảng kinh tế thế giới, công tác XKLĐ gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp ở thị trường nhập khẩu lao động kể cả những nước truyền thống và mới tiếp nhận lại lao động Việt Nam như Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Liên bang Nga, CH Séc, Mandives... bị thu hẹp sản xuất, phá sản, chủ sử dụng phải nợ lương người lao động. Thực tế này làm phát sinh nhiều vấn đề như người lao động phải về nước trước thời hạn nhưng không được các doanh nghiệp giải quyết dứt điểm, gây bức xúc cho người hồi hương và thân nhân của họ ở trong nước. Kết quả là, đã phát sinh đơn thư khiếu nại.

Chỉ tính từ đầu năm 2008 đến giữa năm 2009, đã có khoảng 9.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải về nước trước thời hạn do bị thiếu việc làm, chủ sử dụng lao động nợ lương, công việc làm không đúng hợp đồng đã ký với doanh nghiệp trước khi xuất cảnh...

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, trách nhiệm của nhiều doanh nghiệp XKLĐ chưa thực hiện đúng theo quy trình trong hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, chưa thẩm định, khảo sát kỹ các điều kiện đảm bảo việc làm, sinh hoạt cho người lao động trước khi đến làm việc của đối tác nước ngoài. Nội dung hợp đồng ký giữa doanh nghiệp XKLĐ và người lao động không rõ ràng, không đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của các bên.

Công tác quản lý lao động làm việc ở nước ngoài không được các doanh nghiệp quan tâm thường xuyên, khi có phát sinh liên quan đến người lao động đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp giải quyết không triệt để, đã gây hoang mang, bức xúc cho người lao động. Mặt khác, có những doanh nghiệp giải quyết không đủ căn cứ pháp lý xác định lý do người lao động phải về nước trước thời hạn...

Về phía người lao động, nhiều người chưa cố gắng học tập ngoại ngữ, hiểu biết về các kiến thức cần thiết trước khi đi làm việc ở nước ngoài, các quyền và nghĩa vụ của mình... để chủ động tự bảo vệ mình khi có phát sinh. Nhiều lao động vẫn còn tư tưởng muốn đi nhanh, ngại học, không đọc kỹ nội dung hợp đồng nhưng vẫn ký hợp đồng. Thậm chí, có lao động đi làm việc ở nước ngoài được một thời gian phải về nước, không biết doanh nghiệp nào đã ký hợp đồng với mình và đưa mình đi làm việc ở nước ngoài để đề nghị giải quyết...

Có thể nói, tác động của khủng hoảng kinh tế và khi người lao động gặp rủi ro đã bộc lộ phần nào những bất cập lâu nay trong công tác quản lý lao động, quản lý doanh nghiệp. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động, bảo vệ những doanh nghiệp XKLĐ chân chính rất cần ngành XKLĐ thực hiện các biện pháp quản lý phù hợp hơn.                                  

Huệ Chi