Giả vờ xem điện thoại di động rồi chiếm đoạt, định tội thế nào?

ANTD.VN - Hoàng Đình Q. (SN 1995) vào cửa hàng bán điện thoại di động (ĐTDĐ) của anh Nguyễn Văn P. (SN 1981) để xem với mục đích nếu thấy sơ hở sẽ lấy điện thoại và tài sản của cửa hàng. 

Tại cửa hàng, Q. nói với anh P. cho xem chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu iPhone 7. Q. hỏi giá, anh P. trả lời là 13 triệu đồng. Q. giả vờ đồng ý mua và đút chiếc ĐTDĐ vào túi quần trước sự chứng kiến của anh P. Sau đó Q. tiếp tục hỏi mua thêm 1 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia nữa. Lúc này chị Hoàng Thị T. (SN 1984) là vợ của anh P. đang đứng bán hàng cùng chồng đã lấy chiếc điện thoại Nokia đưa cho Q. xem. Q. hỏi giá, chị T. nói là 2 triệu đồng, Q. tiếp tục giả vờ đồng ý mua. Lúc này Q. nói với chị T. là cần mua thêm 1 chiếc sim điện thoại. Trong lúc chị T. đang chọn sim cho Q., anh P. đang làm việc tại cửa hàng không để ý thì Hoàng Đình Q. đã lấy 2 chiếc ĐTDĐ nêu trên cùng hộp phụ kiện để trên mặt tủ kính bán hàng rồi bỏ chạy ra ngoài đường. Vợ chồng anh P., chị T. đã đuổi theo, hô hoán cùng người dân đuổi bắt được Q. 

Vấn đề đặt ra là trong vụ việc này Hoàng Đình Q. đã phạm tội gì?

Giả vờ xem điện thoại di động rồi chiếm đoạt, định tội thế nào? ảnh 1Ảnh minh họa

Ý kiến bạn đọc

Phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản 

Trong vụ việc này, Hoàng Đình Q. đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 172, Bộ luật Hình sự 2015. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách công khai khi người đó không có điều kiện ngăn cản, bảo vệ. Trong vụ việc này, Hoàng Đình Q, đã thực hiện hành vi chiếm đoạt 2 chiếc ĐTDĐ công khai, ngay trong phạm vi quan sát, nhìn thấy của anh Nguyễn Văn P. và chị Hoàng Thị T. Vì vậy, hành vi này đã cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Vũ Thúy Hà (Mai Châu - Hòa Bình) 

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hành vi của Hoàng Đình Q. trong vụ việc này có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174, Bộ luật Hình sự 2015. Q. đã có hành vi nói dối (gian dối) với vợ chồng anh Nguyễn Văn P. để vợ chồng anh P. cho Q. xem điện thoại (tức là giao tài sản cho Q.). Điều này phù hợp với mặt khách quan của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt thì trong vụ việc này đều có ở Q. Do đó, Q. đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đinh Quốc Bảo (Ba Đình - Hà Nội)

Cướp giật tài sản 

Trong vụ việc này, yếu tố định tội cho hành vi chiếm đoạt tài sản của Hoàng Đình Q. chính là hành động bỏ chạy. Sau khi hỏi giá và giả vờ đồng ý mua 2 chiếc ĐTDĐ từ cửa hàng anh Nguyễn Văn P., lợi dụng lúc vợ chồng anh P. sơ hở, mất cảnh giác, Q. đã mang theo 2 chiếc ĐTDĐ này bỏ chạy. Việc bỏ chạy của Q. thể hiện ý chí muốn chiếm đoạt tài sản của vợ chồng anh P. một cách công khai, nhanh chóng. Hành vi này đã vi phạm quy định tại Điều 171, Bộ luật Hình sự 2015 về tội cướp giật tài sản.

Nguyễn Thúy Hải (Nga Sơn - Thanh Hóa) 

Tội trộm cắp tài sản

Có thể thấy, Hoàng Đình Q. đã lấy 2 chiếc ĐTDĐ tại cửa hàng anh Nguyễn Văn P. trong lúc vợ chồng anh P. không để ý và không quan sát thấy. Hành vi này rõ ràng đã thể hiện việc chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách lén lút. Như vậy, theo Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015, hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút của Hoàng Đình Q. đã cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Phùng Quốc Hà (Sa Pa - Lào Cai)

Bình luận của luật sư

Về quan điểm Hoàng Đình Q. phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 172, Bộ luật Hình sự 2015, theo chúng tôi Q. không phạm tội này. Bởi theo quy định của pháp luật, công nhiên chiếm đoạt tài sản là công khai thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng xảy ra trong trường hợp người chủ tài sản không có điều kiện quản lý trực tiếp hoặc ngăn cản thực hiện hành vi phạm tội. Trong tình huống trên, dù Hoàng Đình Q. chiếm đoạt tài sản trong sự quan sát, nhìn thấy của vợ chồng anh Nguyễn Văn P., tuy nhiên vợ chồng anh P. hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện việc quản lý trực tiếp đối với tài sản. Điều này thể hiện ở việc ngay sau khi Q. lấy 2 chiếc điện thoại bỏ chạy, vợ chồng anh P. đã đuổi theo và hô hoán mọi người xung quanh đuổi bắt Q., tức là vợ chồng anh P. có đủ điều kiện để ngăn cản việc Q. chiếm đoạt tài sản và thực tế ngay sau đó đã bắt giữ được Q. Việc bắt giữ được Q. cũng phần nào thể hiện rõ khả năng và điều kiện quản lý tài sản của chủ sở hữu. Mặt khác Q. nhanh chóng thực hiện chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng rời khỏi hiện trường không phải là đặc trưng của tội này.

Về quan điểm cho rằng Hoàng Đình Q. phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174, Bộ luật Hình sự 2015, đối với quan điểm này chúng tôi nhận thấy, mặc dù Q. có hành vi giả vờ mua điện thoại để vợ chồng anh Nguyễn Văn P. đưa tài sản cho mình, tuy nhiên trong trường hợp này chưa thoả mãn dấu hiệu chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ở tình huống nêu trên, cần phân biệt giữa các khái niệm “đưa tài sản cho xem” và “giao tài sản cho người khác”. Hành vi gian dối của Q. ở đây chỉ là để tiếp cận tài sản, chưa chiếm đoạt được tài sản. Nói cách khác, hành vi gian dối của Q. chỉ là thủ đoạn để Q. thực hiện hành vi chiếm đoạt của tội phạm khác, hành vi chiếm đoạt tài sản sau đó bỏ chạy thỏa mãn dấu hiệu của tội khác. Trong tình huống nêu trên việc vợ chồng anh Nguyễn Văn P. đưa tài sản cho Q. là để Q. xem chứ chưa thực hiện việc giao tài sản quản lý, chưa chấm dứt việc quản lý đối với tài sản sở hữu.

Đối với quan điểm cho rằng Hoàng Đình Q. phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015, từ tình huống trong vụ việc này cho thấy Q. hoàn toàn không có hành vi lén lút. Vì hành vi lén lút phải thể hiện ở việc, về chủ quan người thực hiện hành vi phạm tội che giấu hành vi của mình với chủ sở hữu, với người xung quanh và còn có ý thức che giấu tính bất minh của hành vi đó. Tuy nhiên trong tình huống trên Q. hoàn toàn nhận thức được và biết được sau khi lấy tài sản rời khỏi cửa hàng thì ngày lập tức sẽ bị vợ chồng anh Nguyễn Văn P. phát hiện. Tức là việc lấy đi 2 chiếc điện thoại nêu trên của Q. hoàn toàn không có sự che giấu, lén lút đối với chủ sở hữu và che giấu hành vi phạm tội của mình. Do đó theo chúng tôi Hoàng Đình Q. không phạm tội trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào các tình huống trong vụ việc, chúng tôi có cơ sở để cho rằng hành vi của Hoàng Đình Q. đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản theo Điều 171, Bộ luật Hình sự 2015 vì các lý do sau:

Thứ nhất: Hoàng Đình Q. có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định luật hình sự. Hành vi của Q. trực tiếp xâm hại đến quan hệ sở hữu là quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ.

Thứ hai: Sau khi tiếp cận được tài sản thì Hoàng Đình Q. ngay lập tức thực hiện hành vi nhanh chóng lấy tài sản, nhanh chóng rời khỏi cửa hàng. Hành vi này đã thoả mãn dấu hiệu hành vi của tội  cướp giật tài sản là “nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát”. Tuy hành vi đó là công khai nhưng phân biệt rõ với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản ở chỗ công khai nhanh chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng rời khỏi hiện trường nhằm thoát khỏi sự truy đuổi, bắt giữ khi bị phát hiện. 

Thứ ba: Lỗi do Hoàng Đình Q. thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ về hành vi phạm tội và mong muốn thực hiện tội phạm đó. Mục đích của Q. ngay từ khi vào cửa hàng anh Nguyễn Văn P. là lấy tài sản, mục đích này được rõ hơn khi Q. tiếp cận được tài sản của chủ sở hữu. Mục đích này thể hiện rõ ở việc Q. nhận thấy việc tiếp cận được 2 chiếc điện thoại, Q. cho rằng đã đầy đủ, không cần xem tiếp (tức là tiếp cận đầy đủ tài sản) và lúc này chỉ cần chiếm đoạt nhanh chóng, nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Tất cả các hành vi gian đối giả vời mua bán, giả vờ mua sim điện thoại tất cả đều là “thủ đoạn” của Q. để tiếp cận tài sản và lợi dụng lúc sơ hở nhất của chủ sở hữu là thực hiện ngay hành vi chiếm đoạt tài sản, việc lấy tài sản hoàn toàn ngang nhiên trước sự quản lý của chủ sở hữu, không hề có sự che giấu, lén lút.

Thứ tư: Chủ sở hữu tài sản là vợ chồng anh Nguyễn Văn P. hoàn toàn có khả năng quản lý trực tiếp đối với tài sản và thực tế là chưa thực hiện việc bàn giao tài sản cho Q. Việc đưa tài sản cho Q. chỉ là hoạt động “cho xem”, mua bán điện thoại bình thường, tuy nhiên hành vi đó chủ sở hữu đã vô tình để sơ hở tài sản và Q. đã lợi dụng sơ hở đó để chiếm đoạt tài sản.

Từ những phân tích, nhận định, đánh giá này chúng tôi cho rằng hành vi của Hoàng Đình Q. đã đủ yếu tố để cấu thành  tội cướp giật tài sản quy định tài Điều 171, Bộ luật Hình sự.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà (Văn phòng Luật sư Hà Nguyễn)