Gần 9.000 vụ tai nạn lao động đã xảy ra, ai chịu trách nhiệm bồi thường?

ANTD.VN - Tai nạn lao động là điều không thể lường trước và khó tránh những thiệt hại cả về vật chất và con người, chế độ tai nạn lao động là một chính sách xã hội nhằm bù đắp phần nào những tổn thất đó.

Tai nạn lao động khó tránh khỏi thiệt hại về vật chất và con người

Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH, năm 2017 trên toàn quốc đã xảy ra 8.956 vụ tai nạn lao động làm 9.173 người bị nạn gồm cả khu vực có quan hệ lao động và khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động.

Theo các chuyên gia lao động, tai nạn lao động là điều không thể lường trước và khó tránh những thiệt hại cả về vật chất và con người, chế độ tai nạn lao động là một chính sách xã hội nhằm bù đắp phần nào những tổn thất đó. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào, người lao động cũng được hưởng chế độ tai nạn lao động.

Để làm rõ trách nhiệm bồi thường, trợ cấp cho người bị tai nạn lao động, Ban Quan hệ lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết: theo điều 5 Thông tư số 04 ngày 2-2-2015 của Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp và chi phí y tế của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp quy định:

Trường hợp người một, lao động bị tai nạn khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác (không phải là bản thân người lao động bị tai nạn) gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho người lao động.

Trường hợp hai, người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở tại địa điểm và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác (không phải là bản thân người lao động bị tai nạn) gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động vẫn phải trợ cấp cho người lao động.

Trường hợp ba, người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm.

Trường hợp bốn, nếu người sử dụng lao động không đóng BHXH cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật BHXH, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy định sau:

Đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp một lần bằng mức quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

Đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng bằng mức quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hàng tháng theo thỏa thuận của các bên.