- Ứng phó với già hóa dân số, Hà Nội triển khai 86 mô hình chăm sóc người cao tuổi
- Quan ngại khi tốc độ già hóa dân số ở Việt Nam thuộc top nhanh nhất thế giới
Người cao tuổi chiếm hơn 16% dân số
Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA) nhận định, Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Cho dù già hóa dân số là hệ quả tất yếu của việc mức sinh ngày càng thấp, tuổi thọ ngày càng cao, nhưng nếu không có ngay những chính sách thích ứng hiệu quả mang tầm quốc gia, thì hệ lụy là không thể lường hết được.
![]() |
Tư vấn viên tư vấn chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện |
Mới đây, trong văn bản phản hồi cử tri, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, theo Dữ liệu dân cư quốc gia, cả nước hiện có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi, chiếm trên 16% dân số. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất châu Á, thời gian chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang dân số già là 17 - 20 năm, ngắn hơn so với nhiều nước khác. Năm 2009, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Người cao tuổi. Sau gần 15 năm thực hiện, Luật đã thu được những kết quả nhất định. Hoạt động bảo vệ, chăm sóc người cao tuổi được lồng ghép trong nhiều chương trình, nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương. Người cao tuổi đã được tạo điều kiện để tích cực tham gia vào các phong trào xây dựng nông thôn mới, bảo vệ an ninh Tổ quốc, trật tự an toàn xã hội, văn hóa, thể dục, thể thao tại địa bàn, khu dân cư.
Thực tế, Việt Nam có khoảng 67 triệu người trong độ tuổi từ 15 - 64, tức là hơn 2/3 dân số đang trong lực lượng lao động. Theo dự báo dân số của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2019-2069, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” vào năm 2039, tức là chỉ sau 3 năm khi mà dân số bước vào thời kỳ dân số “già” (khi tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm hơn 14% tổng dân số). Như vậy, tại thời điểm này, Việt Nam đang có xu hướng dân số song hành với nhau, nên nếu không tận dụng cơ hội từ “cơ cấu dân số vàng”, thì cũng có nghĩa là sẽ bỏ qua cơ hội để chuẩn bị tốt cho dân số “già”.
![]() |
Đời sống người cao tuổi nhìn chung còn khó khăn |
Tuổi thọ cao nhưng tuổi khỏe mạnh thấp
Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH (nay là Bộ Nội vụ), ở Việt Nam, nguời cao tuổi chiếm tỷ lệ cao, nhưng phần lớn có cuộc sống khó khăn, thu nhập thấp, không ổn định hoặc không có thu nhập, sống phụ thuộc vào con, cháu, người thân, đời sống nhìn chung còn rất khó khăn.
Theo số liệu của Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), tại Việt Nam, 65,7% người cao tuổi sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp, thu nhập thấp, bấp bênh. Hơn nữa, vì không còn sức khỏe để lao động nên đa số phải sống phụ thuộc. Trong số người cao tuổi tại Việt Nam, chỉ có khoảng 27% là có lương hưu và thu nhập ổn định, còn 73% không có lương hưu, đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và phải sống phụ thuộc vào con cái. Số người cao tuổi được hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội rất thấp nên nhiều người có sức khỏe kém vẫn phải tự lao động kiếm sống hàng ngày.
Mặc dù có tuổi thọ trung bình khá cao nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi ở nước ta lại khá thấp (chỉ khoảng 64 tuổi). Đặc biệt có 67,2% người cao tuổi có tình trạng sức khỏe yếu và rất yếu, nhiều người mắc bệnh nan y… Khoảng 95% người cao tuổi có bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính không lây truyền, trung bình 1 người cao tuổi Việt Nam mắc 3 bệnh. Chỉ có khoảng 60% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế.
Gánh nặng bệnh tật kép ở người cao tuổi đòi hỏi Nhà nước, cộng đồng và gia đình phải đầu tư nguồn ngân sách đáng kể cho công tác khám chữa bệnh, chăm sóc y tế người cao tuổi. Ngoài ra, hệ thống an sinh xã hội cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của người cao tuổi, chưa có hệ thống chăm sóc dài hạn và cung ứng việc làm cũng như chăm sóc sức khỏe dài hạn người cao tuổi. Một bộ phận xã hội còn quan niệm sai lệch về người cao tuổi, vai trò của các tổ thức dân sự, đoàn thể, cá nhân chưa thực sự được phát huy… cũng là những khó khăn, thách thức đối với chất lượng sống của người cao tuổi.
Chính sách đột phá, mở rộng lưới an sinh
Theo GS.TS Giang Thanh Long - Đại học Kinh tế quốc dân, tỷ lệ già hóa dân số cao cũng là thách thức lớn với hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam. Tính đến hết năm 2022, chỉ có khoảng 38% lực lượng lao động tham gia hệ thống an sinh xã hội. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội không được cải thiện sẽ là một thách thức rất lớn. Mặc dù một bộ phận dân số không có lương hưu hay trợ cấp xã hội vẫn có thể tự bảo đảm bằng các nguồn thu nhập khác khi trở thành người cao tuổi và không còn làm việc, nhưng thực tế cho thấy tỷ lệ những người như vậy trong dân số cao tuổi rất thấp, trong khi phần lớn số này rơi vào khó khăn, đặc biệt với những người đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe và phải sống dựa vào sự hỗ trợ của con, cháu.
Bàn về nội dung này, bà Ingrid Christensen - Giám đốc Tổ chức lao động quốc tế (ILO) Việt Nam cho biết, an sinh xã hội là ưu tiên của Việt Nam trong thời gian qua. Việt Nam có những cam kết rất mạnh mẽ về an sinh xã hội thông qua việc ban hành Nghị Quyết 42-NQ/TW (năm 2023) về đổi mới chính sách xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi năm 2024 và đang sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế, Luật việc làm. Những thay đổi này đưa Việt Nam tiếp cận gần hơn đến việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế và các thông lệ quốc tế tốt nhất.
Thống kê cho thấy, tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội của Việt Nam đã tăng dần trong các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010, 4,67% GDP năm 2011, khoảng 6,7% GDP năm 2021, khoảng 7% GDP năm 2023. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam đang hướng tới mục tiêu an sinh xã hội toàn dân và để đạt được nên quy định mức phân bổ ngân sách tối thiểu cho an sinh xã hội. Theo đó, ngân sách cho an sinh xã hội có thể chiếm từ 6 - 10% GDP và tăng chi từ ngân sách Nhà nước cho chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện để người lao động tự do có đủ các quyền lợi tương tự bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thực tế, hiện nay lao động khu vực phi chính thức chưa mặn mà tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện do thu nhập của người lao động khu vực này bấp bênh, không ổn định. Ngoài ra, mức hỗ trợ tiền đóng của nhà nước hiện nay chưa tạo được cú hích để thúc đẩy người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Do vậy, Việt Nam cũng phải tiếp tục tăng cường cam kết và đầu tư cho hệ thống bảo trợ xã hội để có thể tiếp tục tận dụng những tiến bộ kinh tế vượt trội của mình.