Bia đá Văn Miếu - Quốc Tử Giám và triết lý giáo dục coi trọng hiền tài

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
ANTD.VN - Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám vừa giới thiệu đến công chúng một trưng bày mang tên “Bia đá kể chuyện”. Đây là lần đầu tiên những hoa văn, họa tiết, hàng chữ trên 82 tấm bia tiến sĩ tại đây được dịch từ chữ Hán - Nôm sang chữ Việt, cung cấp thông tin cho công chúng về các khoa thi thời xưa cùng tên tuổi những người đỗ đạt.
Trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, hiện chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, hiện chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Chuyện tuyển chọn và trọng dụng nhân tài

Ngay từ những ngày đầu xây dựng nền quân chủ độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đã chú trọng tới việc tuyển chọn và trọng dụng nhân tài. Từ khoa thi đầu tiên được tổ chức năm 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông cho đến khoa thi cuối cùng năm 1919 dưới triều vua Khải Định, lịch sử khoa cử Việt Nam đã trải qua hơn 800 năm với hàng trăm khoa thi được tổ chức và sự xuất hiện của nhiều bậc hiền tài, góp phần đảm bảo cho sự thịnh vượng của biết bao triều đại. Những người đỗ đại khoa không chỉ được triều đình trọng dụng mà kể từ khoa thi năm 1442, họ còn được khắc tên trên bia tiến sỹ đặt tại Văn Miếu ở kinh đô để lưu truyền danh thơm đến muôn đời sau.

Cuộc trưng bày “Bia đá kể chuyện” với chủ đề “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” được thể hiện qua các nội dung như: “Chiêu mộ hiền tài” - giới thiệu một số nét chính về khoa cử của nước ta giai đoạn 1442 -1529. “Con đường khoa cử” - giới thiệu thông tin về thi cử và chế độ đãi ngộ dành cho những người đỗ đạt. “Gương sáng tiền nhân” - giới thiệu một số danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho giáo dục nước nhà và một số lĩnh vực khác. “Lưu danh muôn thuở” - giới thiệu những câu trích dẫn nổi tiếng về giá trị của đào tạo và sử dụng nhân tài. Trưng bày lựa chọn giới thiệu 14 bia tiến sĩ đầu tiên có liên quan đến các khoa thi trong giai đoạn 1442 - 1529, tương ứng với những khoa thi được tổ chức dưới triều Lê sơ và kết thúc bằng khoa thi đầu tiên của nhà Mạc.

Theo Tiến sĩ Lê Xuân Kiêu - Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, một số tấm bia tiến sĩ của Văn Miếu Thăng Long xưa đã bị mất hoặc thất lạc, hiện nay chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Có một thực tế là, hiện tại, việc tiếp cận nội dung trên bia tiến sĩ lại không hề dễ dàng với công chúng, với khách tham quan. Xuất phát từ mong muốn 82 bia tiến sĩ phải đến được gần hơn với công chúng, thông qua đó quảng bá, phát huy giá trị di sản, nên Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám tổ chức trưng bày “Bia đá kể chuyện” như một cách để những tấm bia nằm im lìm suốt thời gian qua sẽ kể câu chuyện về những danh nhân, những bậc hiền tài của đất nước. Bởi lẽ, những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của 82 bia tiến sĩ không chỉ được thể hiện đơn thuần qua những hàng chữ Nho hay hoa văn trang trí trên mặt bia. Ẩn sau lớp mặt đá là hàng ngàn câu chuyện thú vị về cuộc đời và sự nghiệp của hơn 1.300 vị tiến sĩ.

Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ

Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ

Nguồn sử liệu quan trọng

82 tấm bia hiện còn được dựng theo lệnh của các vị vua triều Lê - Mạc để tôn vinh các vị đỗ đại khoa từ năm 1442 đến 1779. Văn bia ghi lại họ tên, quê quán của những người đỗ đạt, đồng thời cung cấp những thông tin quan trọng khác như ngày, tháng, năm dựng bia, họ tên và chức vụ của những người soạn văn bia, người “nhuận sắc”, người viết chữ, người chế tác bia. Chữ viết trên bia cùng các hoa văn trang trí, phong cách tạo dáng bia mang dấu ấn thời đại.

Bia tiến sĩ với các bài văn trên đó chính là nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử dân tộc, mà nổi bật là nền giáo dục khoa cử Việt Nam trong suốt 300 năm. Đó là triết lý giáo dục coi trọng hiền tài - “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” - được nhắc đi, điểm lại trong hầu hết các bài văn bia, thể hiện tinh thần nhất quán trong các triều vua thời Lê - Mạc. Triết lý giáo dục này đã tạo nên sự thành công trong việc phát triển giáo dục của đất nước qua con số 1.307 lượt người đỗ của 82 khoa Đại khoa trong thời gian 300 năm. Văn bia cũng cho biết số Hương cống (đỗ Trung khoa) dự thi Đại khoa từ 450 đến 6.000 người. Và, cứ mỗi khoa thi có từ 3 đến 62 người đỗ đạt. Phần lớn những người đỗ Đại khoa được ghi danh trên 82 bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám sau này đều trở thành những danh nhân văn hóa vì những đóng góp to lớn của họ đối với đất nước trên nhiều lĩnh vực chính trị, văn hóa, quân sự, kinh tế, giáo dục…

Theo thống kê, trong số 1.304 tiến sĩ đỗ đạt được khắc tên trên bia đá thì có tới 225 vị từng được cử đi sứ Trung Quốc vào các triều Minh, Thanh. Cá biệt, có những vị đi sứ tới 2 - 3 lần như Nguyễn Như Đổ (1424-1525), Lê Quý Đôn (1726-1784) và Lương Như Hộc (?-?)... Vì thế, đây cũng là những tư liệu có giá trị để tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của các sứ thần Việt Nam cùng lịch sử mối giao bang giữa các nước vùng Đông Bắc Á.

Bên cạnh đó, mỗi tấm bia không đơn thuần chỉ là một văn bản mà còn là một tác phẩm nghệ thuật với những hoa văn trang trí cầu kỳ, tính cách điệu cao với nhiều chủ đề hoa lá, mây, trăng, long, ly, quy, phượng. Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật đã coi đây như một tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật và điêu khắc Việt Nam từ thế kỷ XV đến XVIII. Hầu hết những bài ký của bia đều tập trung ca ngợi vai trò của Nho giáo trong đời sống chính trị xã hội, ca ngợi chế độ và đề cao nhà vua. Nhưng điều đặc biệt, trong những bài văn bia đó còn đề cập đến những vấn đề mà ngay cả ở thời điểm hiện tại vẫn cần coi trọng như “dựng xây nghiệp lớn, diệt trừ tàn bạo, cứu dân lầm than” hoặc “mở mang văn đức, thu nạp anh tài, đổi mới chính trị...” (bia tiến sĩ năm 1442 khắc năm 1484).

Trong bia khoa thi 1463 do Đào Cử soạn, bên cạnh những dòng ca ngợi triều Lê cùng vua Lê Thái Tổ còn đề cao việc “mở cửa cầu hiền, sửa sang nền đức, cổ vũ lòng dân” hoặc “đem lòng nhân hậu vun bồi cho mệnh mạch nhà nước”. Các bài ký trong bia đề danh tiến sĩ còn giúp chúng ta hiểu được chính sách phát triển giáo dục của các triều đại quân chủ tập quyền Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc chăm lo đào tạo nhân tài cho đất nước. Ví như, trong bia khoa thi tiến sĩ năm 1442 khắc năm 1484 viết: “Nghĩ việc đặt khoa thi, kén kẻ sĩ là chính sự cần làm trước nhất. Tô điểm cơ đồ, khôi phục mở mang trị hóa chính là ở đây, sửa sang chính sự, sắp đặt công việc, giáo hóa dân phong mỹ tục là ở đây, các bậc đế vương đời xưa làm nên trị bình đời nào cũng theo thế”.

Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự

Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự

Vấn đề coi trọng hiền tài tiếp tục được nhấn mạnh: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi trọng việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Bia khoa thi Tiến sĩ năm 1448 cũng đề cập tới vấn đề này: “Sự lớn lao của nền chính trị, của bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài. Việc cai trị mà không lấy nhân tài làm gốc thì đều bị coi là thiếu đường hướng phát triển”.

Không chỉ thể hiện đường lối trọng dụng nhân tài, nội dung những bài ký trên bia còn là những bài học răn dạy, nhắc nhở trách nhiệm của những người đỗ đạt đối với đất nước: “Kẻ sĩ được khắc tên vào tấm đá này thật may mắn biết bao, nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau ” (văn bia khoa thi năm 1487). Và kẻ sĩ trên cơ sở đó “Hãy làm mây lành, sao tỏ, nêu điểm tốt cho đời, làm ngọc sang, vàng ròng để làm kho báu cho nước” (văn bia khoa thi năm 1514); hoặc “thảng hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới sĩ hoạn kính trọng, người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói, kẻ kia là hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục” (văn bia khoa thi năm 1577).

Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị và mang đậm tính thời sự. Những áng văn bất hủ được người xưa khắc ghi vẫn khẳng định, điều quan trọng nhất đối với một quốc gia chính là đào tạo, bồi dưỡng được hiền tài, không chỉ bồi đắp hiền tài cho thế hệ mình, mà còn phải nghĩ đến thế hệ sau, tương lai của đất nước. Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Những vấn đề như chính sách phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực luôn là chính sách hàng đầu, cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ thời đại nào trong quá trình xây dựng và phát triển.