Ao xưa trong lắm

ANTĐ - Hồi bố tôi còn trên chiến khu, hai mẹ con tôi tá túc ở nhà ông ngoại. Trước nhà ông ngoại có một vườn rộng mênh mông. Một phần vì nhà neo người. Ông ngoại tôi mất độ năm, sáu năm về trước, đâu khoảng năm ngọ, năm mùi gì đấy. Bác cả tôi sinh con một bề, hai chị cùng tuổi tôi, lít nhít lên năm lên sáu. Nhà hơn mẫu ruộng, cả hai bác đều không phải hạng lực điền gì nên kham từng ấy ruộng đã bở hơi tai. Em gái là mẹ tôi thì một mình bươn chải quanh năm tòng teng đôi quang gánh. Một bên thúng là tôi, bên kia là rượu, thuốc lào bán vặt cho dân trong làng và mấy làng bên. 

Chiều nào về cũng thấy mẹ tôi bóp chân. Em trai là hai cậu kế liền mẹ tôi thì lăm lăm bay nhảy, nên tiếng là vườn nhà nhưng chẳng mấy khi dính hơi tay người chăm bón. Thành thử cây mọc um tùm, chuối là chủ yếu cùng xoan, nhãn. Khu vườn như bị quên lãng, thi thoảng dăm bữa, nửa tháng nghe tiếng chào mào loét choét mới hay trong vườn có buồng chuối chín. 

Kề liền trước mặt vườn là một cái ao không hiểu sao lại gọi là ao Binh. Mấy vị cao niên ở làng tôi bảo cái ao đó do làng đào ra để dùng vào việc công của làng. Có người lại bảo ao đó do quân Cờ đen đào ra để dành cho quân lính tắm táp như cầu Binh địa liền với ao Sen là nơi quân Cờ đen tập trận. Nếu tách ao Binh ra một mình thì cũng là ao to nhất nhì làng. Góc ao phía vườn nhà tôi là cây vối lưu niên. Mẹ tôi bán chè mạn nên bác cả tôi buổi sáng sau bữa sớm để kịp ra đồng thường uống trà “vì cái giống trà làm cho người tỉnh táo, hút điếu thuốc cũng đượm giọng hơn”. Thành thử, lá vối chỉ dành cho bác gái tôi thỉnh thoảng ra hái mang về ủ cho khô và cho dân làng. Quả vối ngọt lừ rút lại cũng chỉ dành đám chào mào, và rụng xuống ao. Ba chị em tôi thích quả vối lắm nhưng cũng đành chịu vì vườn thì rậm rạp, ao Binh thì nghe hai bác và mẹ tôi bảo dưới ao nhiều con nam lắm. Đứa nào cứ ra nghịch bên bờ ao, hay cầu ao thì nam rút chân. 

Phía giáp đồng đối diện với vườn nhà tôi là một lũy tre um tùm, dưới gốc tre có một cái hủm không rõ do chuột đào bới, hay nước ao ăn vào sâu hoắm. Mẹ tôi, bác gái thì bảo đó là hang của con nam. Cậu tôi tủm tỉm cười, nói nhỏ với tôi đấy là hang của một cặp vợ chồng chim cuốc. Tôi tin cậu tôi hơn vì vào những chiều hè khi ngày chỉ còn sót lại vài tia nắng yếu ớt hiện rõ trên những rải quạt mỏng mảnh phía đầu trời thì vọng từ bên kia ao, tiếng cặp vợ chồng cuốc lại gióng giả vang lên không rõ để gọi hè, gọi con hay là báo hiệu đêm tối sắp đến. Thỉnh thoảng đi theo cậu ra phía bờ ao tôi cũng nhìn thấy mấy con cuốc con đen sì lon ton chạy theo cuốc mẹ rồi lủi mất hút. Đúng là cuốc lủi. Thấy tôi trố mắt có vẻ thích thú nhìn theo con cuốc, cậu tôi bảo: “Để hôm nào cậu bắt cho con”. Thế là vào một buổi chạng vạng, cậu tôi lần sang bờ đối diện, rồi chui vào bụi tre. Nấp kín xong, cậu tôi bắt chước tiếng cuốc gọi con. Tiếng “luốc, cuốc cuốc” của cậu tôi dìu dặt vang lên trên mặt ao sao mà tha thiết, quyến rũ làm vậy. Buổi tối khi mang đôi cuốc con về thả vào lồng cho tôi chơi, cậu tôi bảo “Nghe tiếng cậu đám cuốc con lầm tiếng mẹ gọi từ đâu đến cứ nhảy lên vai cậu chờ mẹ. Mà này, lúc nào con chơi chán, để cậu mang trả vào tổ cho mẹ nó khỏi tội”….

Kề liền với ao Binh là ao Sen. Hai ao nối với nhau bằng một cái đập nhỏ đã lở đi nhiều nên hai ao gần như dính vào nhau. Ao Sen là cái ao to nhất làng tôi kế liền với dốc Thụy chạy giữa lũy trẻ rậm rì và cây sung cổ thụ để làm nên một góc làng hoang liêu, huyền bí khiến đám trẻ chúng tôi ngay cả giữa trưa hè cũng không dám một mình đi qua. Những người có tiếng bôn ba ở làng còn bảo ao Sen có lẽ cũng thuộc loại to nhất tổng, có khi cả nhất phủ Hoài Đức chứ không bỡn. Khi tôi về ở nhà ông ngoại tôi thì ao Sen đã không còn cây, hay bông sen nào mà ven ao chỉ có những súng bèo của mấy nhà quanh ao nuôi lợn. Vậy mà không hiểu sao ao này lại mang tên loài hoa đẹp và thanh khiết nhất các loài hoa xứ này. Tôi không rõ ao Sen có to nhất tổng, nhất phủ hay không nhưng trong mắt tôi hồi bé ao Sen mênh mông và bát ngát lắm. Đứng từ đầu ao nhìn vào những hôm cuối trời chớm thu, sương mờ giăng giăng mặt ao thì khó mà nhìn rõ người, trâu bò đi cuối ao. Còn vào hôm đẹp trời, nơi cuối ao giáp với mạn cầu Binh thấy người chỉ nhỏ bằng đầu đũa. Còn bề rộng của ao Sen thì… 

Hồi đó cậu tôi đang vào độ tuổi đôi mươi, bắp tay, bắp chân cuồn cuộn, ngực nở từng tảng. Cậu từng giật giải nhất trong giải vật Hội Chèm có mời cả các đô ở làng Quỳnh Đôi lên. Cậu tôi đang sung sức là thế mà mẹ tôi làm xong hai con gà trong ngày giỗ ông ngoại, mới bơi sang được bờ bên kia. Ao Binh ngoài mấy chiếc cầu ao bằng tre ghép hay ván thì làng còn xây một cầu ao bằng gạch cho dân giặt giũ và làm gà, làm vịt. Còn ao Sen thì hồi bé có lần tôi đếm, quanh ao có đến năm cái cầu ao bằng gạch do làng xây. Lũ trẻ chúng tôi vào vụ hè có dễ ngày nào cũng phải hai lần xuống ao ì ùm. Buổi trưa đi bắt cua về tráng giỏ cua sạch bùn, tắm táp. Buổi chiều đá bóng bưởi chán chê trên bãi cỏ cạnh nhà cụ Đội Kèn (Hồi bé và ngay đến bây giờ xin hương hồn cụ thứ phép, tôi cũng như lũ bạn cùng trang lứa của tôi không biết tên chính cụ là gì, chỉ biết cụ đã từng lên chức đội trong đội thổi kèn của quân Pháp), mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chúng tôi lao ngay xuống ao Sen. Mặt ao thì nóng như nước đun sôi để nguội, vậy mà càng lặn sâu càng mát rượi… Bây giờ nhớ lại mới thấy lạ một điều. Ao làng tôi quanh bờ cái nào cũng sum suê bóng của những lũy tre, rặng ổi, cây nhãn , cây vối lưu niên. Còn quanh ao Sen chỉ có bờ cỏ, những gò đồi bao quanh khiến ao càng mênh mông, khoáng đãng. Sự khoáng đãng, minh bạch đó làm sao có chỗ cho những con nam thâm hiểm trú ngụ mà kéo chân trẻ con…

Làng tôi thuở trước nhiều ao lắm. Ngoài ao Sen, ao Binh, rồi ao Đình, ao Chùa được xem là ao làng còn trong làng cứ vài nhà lại quần tụ quanh một chiếc ao. Các cụ bảo ngày xưa mỗi bận làm nhà người ta vật thổ lấy đất làm nền, nung gạch, nung ngói. Hố đấu mưa xuống cho nước, trồng quanh bờ đấu búi tre, cây nhãn, cây ổi, cây roi, cây vối .. thế là thành cái ao. Thả bèo lấy cái nuôi lợn. Ăn cơm xong ra cầu ao rửa bát. Chiều chiều con trai nhảy xuống ao hò hét bơi lặn. Mưa xuống những con rãnh, lạch nhỏ trong làng chảy thông ao nọ sang ao kia, đám cá rô, cá riếc, cá trê động nước rạch lên cho đám con trai bắt cá. Giáp Tết sau đợt tát ao bắt cá, lại thả nước về ao để người mổ lợn, mổ gà, rửa lá dong, lá chuối, đãi gạo, đãi đỗ. Và tôi yêu người con gái thon thả, má lúm đồng tiền một thời giờ đã là bà nội cũng bởi quả roi rơi xuống mặt ao lấm tấm bèo dâu nhà ông ngoại tức nhà cụ Phán Vân, con cụ Tú dạy học nổi tiếng khắp vùng Chèm, Vẽ... Và cả Phủ Hoài. Lũy tre bờ ao nhà cậu nó cũng một đôi cuốc từ đồng vào làm tổ. Đã là gã thanh niên biết làm dáng trước mặt gái làng mà tiếng cuốc ấy vẫn gợi đến nôn nao cho một thời bồng bềnh trên vai cậu qua ao …

Vậy mà về làng bây giờ, lòng cứ thấy buồn buồn. Một nỗi buồn không định rõ. Cật vấn mãi trong độ sâu của tâm khảm mình cứ nghĩ hay đó là sự trầm mặc của kẻ đã sống lâu trên mặt đất, dưới gầm trời chao chát này, ít nhiều nhận ra sự đời đa đoan. Cái chênh chao muôn mặt của lẽ sống. Nghĩ mãi, nghĩ mãi mới hay nỗi buồn mang mang ấy là sự đổi thay của làng. Chao ôi làng tôi một thời nhiều ao thế. Nước ao làng tắm mát cả một tuổi thơ đâu chỉ riêng tôi với những mộng mơ, những bần thần những buổi chiều vàng quạch ráng chiều. Giờ ao làng vĩnh viễn vùi chôn dưới những nhà ống lênh khênh lợp mái tôn, những tường nhà đổ bê tông trơ lỳ như mặt ngưòi trơ tráo vỡ hụi quỵt nợ. Ao Binh, cái ao róng rả tiếng mẹ con cuốc ra rả gọi hè, tiếng giả cuốc của cậu tôi giờ là toà nhà to vật, thô thiển chói loà bình nước tôn trên nóc. Ngay cả ao Sen mênh mông đến gần bốn mẫu giờ teo tóp khuôn lại bởi những nhà ống lấn chiếm xây lên. Cậu tôi đã ngoài tám mươi thều thào bảo “Ngày xưa chỉ cần phạm một chút đất công, ao làng thì không biết có sống nổi ở làng không. Thời nay dân chủ kẻ trơ tráo, kẻ có tiền là được lợi”. Cũng còn may, làng tôi có ông chủ tịch còn kém con trai thứ nhà tôi một tuổi có bằng cử nhân văn hoá từng đọc tiểu thuyết “Vết xoáy trước ngực làng” của tôi kể về làng Chèm cách đây non thế kỉ, chắc tiếc cái ao to nhất làng, nhất tổng nên xin Huyện cho làng dự án khoanh ao. Chao ôi, ao Sen mênh mông, hoang dã một thời giờ bị lấn chiếm nay chỉ còn tí tẹo lại thêm tường hoa bao quanh nom như một bể cá cảnh của một gã trọc phú bỏ quên bên góc làng đang bê tông hoá. Cái ao đẹp như trong tranh Nguyễn Phan Chánh đằng bố vợ tôi cũng lấp lại để chia đất cho mấy cậu em.

Trời! Thế là ao làng tôi đã mất rồi. Chớm mưa, người làng Chèm bì bõm lội trên đường làng ram ráp xi măng vì không còn nơi thoát nước. Những đứa trẻ làng tôi sẽ chẳng bao giờ được thoả thích bơi lội trong nước ao mát lạnh những buổi chiều hè, không còn được bắt cá rạch từ ao lên ngày mưa. Người con gái không còn được làm duyên khi rửa chân rửa bát, đãi đỗ bên cầu ao cho chàng trai ngắm nhìn. Ao mất hết rồi, vậy là những con nam huyền bí mãi mãi không còn trong lời doạ ngọt ngào của người mẹ giữa tiếng võng đưa kẽo kẹt buổi trưa hè nữa. Tiếc thay…